Tóm Tắt
Nạp chồng phương thức – Method Overloading
Khái niệm
Tương tự như khái niệm nạp chồng hàm trong C++, nạp chồng phương thức (method overloading) trong Java là hiện tượng nhiều phương thức có cùng tên, tuy nhiên số lượng tham số hoặc kiểu của tham số trong các phương thức này là khác nhau trong cùng 1 class hoặc trong xuyên suốt các class có quan hệ kế thừa.
Chú ý: Các phương thức có cùng tên, cùng danh sách tham số, tuy nhiên, kiểu trả về khác nhau không được xem là overload.
Tác dụng và cơ chế của overload
Sử dụng overload trong một chương trình nhằm tăng khả năng tổ chức cho chương trình khi các hàm có gần ý nghĩa, mục đích chỉ khác về tham số.
- Giả sử không có overload, định nghĩa các hàm tính tổng 2, 3, 4 tham số:
- Phương thức cộng 2 số:
int sum2(int a, int b)
- Phương thức cộng 3 số:
int sum3(int a, int b, int c)
- Phương thức cộng 4 số:
int sum4(int a, int b, int c, int d)
- Phương thức cộng 2 số:
- Áp dụng overload:
- Phương thức cộng 2 số:
int sum(int a, int b)
- Phương thức cộng 3 số:
int sum(int a, int b, int c)
- Phương thức cộng 4 số:
int sum(int a, int b, int c, int d)
- Phương thức cộng 2 số:
Trình biên dịch sẽ dựa vào tham số được truyền vào phương thức mà quyết định xem sẽ gọi phương thức nào trong danh sách phương thức overload.
Overload với tham số kiểu cơ bản
Có 2 cách để tạo ra hiện tượng overload:
- Thay đổi số lượng tham số.
- Thay đổi kiểu dữ liệu của tham số.
Thay đổi số lượng tham số
Đây là trường hợp dễ nhận biết nhất của overload:
public class Stdio { private static final String address = "stdio.vn"; private String author; Stdio() { writer = ""; } Stdio(String writer) { this.writer = writer; } public static void main(String[] args) { // Call no arguments constructor Stdio obj = new Stdio(); System.out.println(obj.writer); // Call constructor has a argument Stdio obj1 = new Stdio("Alice"); System.out.println(obj1.writer); } }
Đoạn code trên thực hiện overload constructor của lớp Stdio với 1 constructor không có tham số và 1 constructor có chứa 1 tham số.
Thay đổi kiểu dữ liệu của tham số
Khi có cùng số lượng tham số, trình biên dịch sẽ dựa vào kiểu của đối số được truyền vào phương thức, sau đó đối chiếu với kiểu dữ liệu của tham số của phương thức để chọn ra phương thức thích hợp nhất.
void add(int param1, int param2) { System.out.println(param1 + param2); } void add(float param1, float param2) { System.out.println(param1 + param2); } public static void main(String[] args) { Calculation obj = new Calculation(); obj.add(10, 10); obj.add(10.5f, 10.24f); }
obj.add(10, 10)
gọi phương thứcvoid add(int param1, int param2)
do cả 2 tham số truyền vào đều là kiểuint
.obj.add(10.5f, 10.24f)
gọi phương thứcvoid add(float param1, float param2)
do cả 2 tham số truyền vào đều là kiểufloat
.
Ở một khía cạnh khác, hiện tượng ép kiểu và lớp bao trong Java được sử dụng như thế nào trong nạp chồng phương thức.
Quan sát ví dụ dưới đây:
public class TestOverload { void method(Integer param) { System.out.println("_Integer invoked"); } void method(long param) { System.out.println("_long invoked"); } public static void main(String[] args) { Calculation obj = new Calculation(); obj.method(10); } }
Kết quả là: _long invoked
obj.method(10)
khi truyền 10 là một đối số kiểu int
, trình biên dịch kiểm tra xem có phương thức nào có tham số là kiểu int
hay không nhưng không tìm thấy.
Thay vào đó, nó tìm thấy 2 phương thức có tham số là lớp bao của kiểu int
là Integer
– void method(Integer param)
và một kiểu rộng hơn kiểu int
là long
– void method(long param)
, trình biên dịch sẽ ưu tiên gọi phương thức có tham số có kiểu rộng hơn đối số truyền vào thay vì phương thức có tham số là lớp bao của đối số truyền vào.
Overload và quan hệ kế thừa
Quan hệ kế thừa thường đề cập tới mối quan hệ IS-A. Nói cách khác, một đối tượng thuộc lớp con cũng là một đối tượng thuộc lớp cha. Vì thế, khi thực hiện overload phương thức hoàn toàn có thể truyền một đối tượng thuộc lớp con vào một phương thức trong danh sách phương thức overload có tham số mang kiểu dữ liệu của lớp cha.
class Animal {} class Dog extends Animal {} public class Test_Animal { void eat(Animal animal) { System.out.println("Animal eats everything"); } void eat(Dog dog) { System.out.println("Dogs eat meat"); } public static void main(String[] args) { Test_Animal obj = new Test_Animal(); Animal animal = new Animal(); Dog dog = new Dog(); Animal animal_obj = new Dog(); obj.eat(animal); obj.eat(dog); obj.eat(animal_obj); } }
Kết quả:
Animal eats everything
Dogs eat meat
Animal eats everything
Kết quả của dòng thứ 3 có thể gây bối rối:
Animal animal_obj = new Dog()
khởi tạo một đối tượngDog
và gán cho một tham chiếu kiểuAnimal
.- Như vậy
obj.eat(animal_obj)
– phương thứceat
có tham số kiểuDog
sẽ được gọi, nhưng ở đây, trình biên dịch lại gọi phương thứceat
có tham số kiểuAnimal
.- Vì tham chiếu
animal_obj
chỉ xác định được đối tượng nó tham chiếu thực sự tới là đối tượng nào tại quá trình runtime, điều đó đồng nghĩa với, trong khi biên dịch (compile)animal_obj
chưa hề biết đối tượng nó thực sự tham chiếu tới trên heap và trình biên dịch chỉ biết vềanimal_obj
có kiểu dữ liệu làAnimal
. - Trong khi đó, việc quyết định chọn phương thức trong danh sách phương thức overload lại được trình biên dịch quyết định trong quá trình compile, nên trình biên dịch sẽ quyết định phương thức overload được gọi dựa vào kiểu dữ liệu của tham chiếu (
Animal
), không phải dựa vào kiểu dữ liệu của đối tượng được tham chiếu tới (Dog
).
- Vì tham chiếu