Victim Blaming: Điều Gì Xảy Ra Khi Nạn Nhân Bị Đổ Lỗi?

Victim Blaming: Điều Gì Xảy Ra Khi Nạn Nhân Bị Đổ Lỗi?

Cụm từ Victim Blaming ( đổ lỗi cho nạn nhân ) là cụm từ được nhắc đến khá nhiều, đặc biệt quan trọng là khi xã hội tăng trưởng và con người phải đương đầu với nhiều yếu tố hơn. Chúng ta đều hiểu rằng, việc đổ lỗi cho nạn nhân là không đúng và mang lại những hậu quả đáng buồn. Để hiểu hơn về khái niệm này cũng như làm thế nào để ngăn ngừa nó, hãy cùng tìm hiểu và khám phá bài viết dưới đây .

Đổ Lỗi Cho Nạn Nhân ( Victim Blaming ) Là Gì ?

Đổ lỗi cho nạn nhân ( Victim blaming ) hoàn toàn có thể định nghĩa là lời nói, hành vi, cách đối xử của một người với nạn nhân, nhằm mục đích trực tiếp bộc lộ hoặc ý niệm những hành vi làm hại hay ảnh hưởng tác động xấu đi đến nạn nhân như tiến công, lạm dụng, quấy rối tình dục là hệ quả của những gì mà nạn nhân đã gây ra trong quá khứ. Thay vì quy nghĩa vụ và trách nhiệm cho thủ phạm, những người đổ lỗi cho nạn nhân lại quy vào chính nạn nhân và cho rằng họ xứng danh phải chịu điều đó .

Nạn Nhân Tự Đổ Lỗi Cho Chính Mình

Không chỉ từ góc độ của người khác, nạn nhân cũng có thể tự đổ lỗi cho chính mình. Bởi một số nguyên nhân, họ đã tự thuyết phục bản thân rằng họ phải chịu một phần trách nhiệm trước những điều xấu đã xảy ra với họ.

Nguyên Nhân

Nguyên nhân mà mọi người đổ lỗi cho nạn nhân đã được những nhà nghiên cứu tìm hiểu và khám phá và đưa ra những dẫn chứng. Dưới đây là 1 số ít nguyên do phổ cập cho hành vi victim blaming .

Trốn Tránh Trách Nhiệm và Bảo Vệ Niềm Tin Của Bản Thân

Những kẻ phạm tội đổ lỗi cho nạn nhân nhằm mục đích tự bào chữa cho chính mình để chối tội. Thậm chí sự đổ lỗi này cũng hoàn toàn có thể thấy ở những luận sư bào chữa cho những bị cáo. Người thân hay những người yêu quý thủ phạm cũng thường gán nghĩa vụ và trách nhiệm lên người nạn nhân vì họ không muốn tin rằng thủ phạm – người họ kỳ vọng luôn hành vi đúng đắn – đã gây ra tội ác. Ví dụ, trong 1 số ít vụ bê bối mà những thần tượng ( idol ) là thủ phạm, nhiều người hâm mộ đã đổ lỗi cho những nạn nhân vì không muốn sụp đổ niềm tin vào thần tượng của mình .

Bảo Vệ Quan Điểm Thế Giới Công Bằng

Có một thí nghiệm vô cùng nổi tiếng năm 1966 có tên “ Phản ứng của người quan sát so với nạn nhân vô tội ” do Lerner, M. J. và Simmons, C. H. triển khai đã điều tra và nghiên cứu về yếu tố này. Có hai nhóm phụ nữ được nhu yếu tận mắt chứng kiến ​ ​ một cô gái tham gia một bài kiểm tra. Nếu vấn đáp đúng, cô ấy sẽ không sao. Tuy nhiên nếu vấn đáp sai, cô ấy phải chịu những cú sốc điện đau đớn. Cô gái bị điện giật trong thí nghiệm thực ra là một diễn viên và cô ấy không thực sự bị sốc điện. Nhưng cô ấy đã đem lại cho những người tham gia thí nghiệm cảm xúc chân thực như thể cô ấy bị đau .Ban đầu, những người tham gia đều tỏ ra không dễ chịu khi tận mắt chứng kiến ​ ​ cảnh nạn nhân đau khổ. Sau đó, một nhóm đã được cung ứng thời cơ trợ giúp nạn nhân bằng cách bỏ phiếu để ngăn ngừa cú sốc khi cô ấy vấn đáp sai. Hoặc là thay vào đó, họ hoàn toàn có thể chọn bồi thường cho cô ấy bằng tiền như một phần thưởng cho những câu vấn đáp cô ấy đúng. Nhóm người tham gia thứ hai không được trao thời cơ này. Thay vào đó, họ phải ngồi nhìn nạn nhân liên tục bị điện giật mà không có cách nào khắc phục tình hình .Sau đó, toàn bộ những người tham gia được nhu yếu san sẻ quan điểm ​ ​ của họ về nạn nhân. Kết quả thật đáng chú ý quan tâm : nhóm được trao phần thưởng coi nạn nhân là người tốt trong khi những người còn lại phần lớn đã coi cô ấy là người xấu và đáng phải chịu cú sốc điện .Các tác giả của nghiên cứu và điều tra Tóm lại rằng nhóm người không hề ngăn ngừa những điều tồi tệ xảy ra với nạn nhân cảm thấy cần phải coi cô ấy là người xấu để bảo vệ quan điểm của họ rằng quốc tế là công minh, mọi việc xảy ra đều có nguyên do của nó. Nếu họ hoàn toàn có thể tự thuyết phục rằng cô ấy là người xấu và xứng danh phải chịu đựng “ hình phạt ”, họ sẽ ít bị tác động ảnh hưởng và dằn vặt bản thân bởi sự đau khổ của nạn nhân. Các nạn nhân nhiều lúc cũng tự thôi miên mình rằng họ đã làm sai và việc phải chịu những điều tệ hại là đương nhiên .Tham Khảo : 8 Thí nghiệm tâm ý nổi tiếng

Tăng Cảm Giác An Toàn Cho Bản Thân

Barbara Gilin – một giáo sư về công tác làm việc xã hội của ĐH Widener đã lý giải rằng : “ Bất kì một tội ác nào cũng sẽ khiến nhiều người có xu thế victim blaming. Điều này bắt nguồn từ chính sách tự phòng vệ khi đương đầu với những tin xấu. ” Gilin quan tâm rằng khi mọi người có khuynh hướng đồng ý rủi ro đáng tiếc cùng những nguy hại là điều luôn sống sót và không hề tránh khỏi, họ sẽ muốn trấn áp nhiều hơn việc liệu họ có trở thành nạn nhân tiếp theo hay không và liệu họ hoàn toàn có thể làm gì để bảo vệ bản thân mình. Đặt bản thân ở vị trí của một người có rủi ro tiềm ẩn trở thành “ nạn nhân tiếp theo ”, họ sẽ cố gắng nỗ lực tìm ra “ lỗi lầm ” của “ nạn nhân trước mắt ” như một cách “ rút kinh nghiệm tay nghề ” và cố gắng nỗ lực không “ mắc phải ” để tránh điều xấu .

Vì cơ chế tự bảo vệ bản thân mà chúng ta có những suy nghĩ đổ lỗi cho nạn nhân mà đôi khi chúng ta không hề nhận thức được rằng mình đang làm điều đó. Ví dụ khi thấy nhà hàng xóm bị trộm đột nhập, mọi người sẽ thoải mái hơn khi biết rằng nhà hàng xóm đã “mắc lỗi” quên khóa cửa. Nguyên nhân này giúp họ cảm thấy an toàn vì họ chắc chắn sẽ nhớ khóa cửa và sẽ không bị mất cắp. Kể cả những người thiện chí nhất cũng đôi khi góp phần thúc đẩy suy nghĩ victim blaming. Trong các chương trình phòng ngừa xâm hại, các nhà trị liệu thường đưa ra lời khuyên về việc “phụ nữ nên cẩn thận trong ăn mặc và không nên ra ngoài vào buổi tối để tránh trở thành đối tượng của tội phạm”. Vì thế khi nghe tin một ai đó bị xâm hại, chúng ta sẽ thường nghĩ rằng “Ồ, có lẽ nạn nhân đã đi tới chỗ vắng vẻ vào buổi tối, có lẽ cô ấy đã ăn mặc không kín đáo. Mình sẽ không bị như vậy nếu luôn đi đến những nơi an toàn”. Các nạn nhân cũng có suy nghĩ này nhằm tăng cảm giác an toàn của mình. Họ tự trách mình đã không cẩn thận và nếu biết rút kinh nghiệm, lần sau họ sẽ không gặp phải những điều tương tự. Trên thực tế, cho dù vì bất cứ nguyên nhân gì, điều chắc chắn là nạn nhân sẽ không phải chịu bất kỳ trách nhiệm gì về hành vi mà kẻ phạm tội gây ra cho họ.

Tham Khảo : Dù ở thiên nhiên và môi trường bảo đảm an toàn, bạn vẫn hoàn toàn có thể lo ngại

Mức Độ Nguy Hiểm

Đổ lỗi cho nạn nhân gây ra những hiểu nhầm nguy khốn. Chúng gieo vào đầu mỗi người tâm lý xô lệch về vấn đề và đối tượng người dùng phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm cho vấn đề đó .Victim blaming khiến nạn nhân trở nên khó tiếp cận và trình báo về vấn đề, gây cản trở việc truy xét, truy lùng tội phạm. Tại Canada trung bình cứ 3 trẻ em gái lại có 1 trẻ từng bị l. ạm d. ụng / t. ấn c. ông t. ình d. ục ở độ tuổi 18. Tuy vậy 97 % những vụ án không được báo cáo giải trình đến cơ quan công an .Đổ lỗi cho nạn nhân cũng “ củng cố ” sức mạnh cho những kẻ phạm tội. Nó được cho phép thủ phạm tránh phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về hành vi của họ, thậm chí còn liên tục phạm tội .Về phía nạn nhân, bị đổ lỗi hoặc tự đổ lỗi cho chính mình hoàn toàn có thể dẫn đến ngày càng tăng sự đau khổ không thiết yếu cho họ. Họ phải chịu tác động ảnh hưởng về sức khỏe thể chất tinh thần, chịu cảm xúc xấu hổ và tội lỗi khi bị chế giễu. Việc này sẽ làm chậm quá trình tự chữa lành của họ và khiến tâm lý của họ trở nên ô nhiễm. Đồng thời việc đổ lỗi cũng ngăn nạn nhân tiếp cận với sự tương hỗ và giúp sức mà họ xứng danh có. Họ sẽ phải tận mắt chứng kiến cảnh ​ ​ những kẻ phạm tội trốn thoát được sự trừng phạt thay vì nhận được sự công minh mà họ đáng được nhận .

Kết Lại

May mắn thay, việc đổ lỗi cho nạn nhân ngày càng được nhận thức rõ ràng và đúng đắn hơn. Các phương tiện đi lại tiếp thị quảng cáo và những phòng xử án đang dần biến hóa cách tiếp cận và đối xử với nạn nhân. Nếu trải qua một vụ hành hung, quấy rối, … hãy bình tĩnh tâm lý và hiểu rằng tất cả chúng ta không phải là người sai. Đẩy lùi việc đổ lỗi cho nạn nhân sẽ giúp quốc tế trở nên bảo đảm an toàn và tốt đẹp hơn .Nguồn

  1. VeryWellMind – Victim blaming – The reason behind the blame

  2. SACE – Victim blaming ( sace.ca )
  3. The Atlantic – Psychology of Victim Blaming
  4. Wikipedia – Victim Blaming