Con đường khổ luyện trở thành ninja siêu hạng

Ninja phải tập luyện từ nhỏ để có được kĩ năng ngoạn mục .

Họ đến như một làn gió. Họ biến mất như một làn khói. Tất cả được thực thi trong đêm với các thủ pháp vượt quá năng lượng người thường. Ninja – chiến binh bóng đêm ngoạn mục luôn là nỗi lo âu của bất kỳ lãnh chúa Nhật nào mỗi khi đêm xuống .

Sử gia Michael Turnbull nói rằng chương trình huấn luyện ninja đầu tiên xuất hiện vào giữa thế kỷ 15, khi những gia đình samurai bắt đầu tập trung vào các kế hoạch ám sát nhân vật quan trọng.

Giống như samurai, ninja được coi là một nghề, có truyền thống lịch sử riêng và truyền từ đời nọ sang đời kia. Theo Turnbull, ninja được giảng dạy từ khi họ mới 3,4 tuổi .
Ngoài kỉ luật thép về võ thuật, một người trẻ tuổi muốn trở thành ninja phải học các kĩ năng dò tìm, sống sót cũng như cách sơ cứu khi bị thương và cách dùng thuốc nổ .
Các ninja phải học các giải pháp chữa bệnh. Trong trận đấu Sekigahara, một ninja của làng Iga đã sơ cứu cho Naomasa, một người bị thương do súng hỏa mai bắn phải. Ninja này đã cho người bị thương một chút ít thuốc màu đen và máu được cầm ngay lập tức .
Trận Sekigahara là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử dân tộc Nhật Bản diễn ra vào năm 1600 Sekigahara, thuộc tỉnh Gifu ngày này. Trận đánh diễn ra giữa hai phe, một phe ủng hộ con trai của Toyotomi Hideyoshi là Toyotomi Hideyori lên nắm quyền. Phe kia ủng hộ Tokugawa Ieyasu, lãnh chúa hùng mạnh nhất thời bấy giờ .
Rèn luyện thân thể là rất quan trọng, trong đó có chạy đường dài từ 10-20 km / ngày, leo núi cao, các kĩ thuật đi không để lại dấu vết và bơi dưới nước trong nhiều giờ với ống thở bằng sậy. Các kỹ năng và kiến thức tương quan tới nghề ninja sẽ là bắt buộc nếu họ muốn trở thành một người chuyên nghiệp .

Tranh vẽ ninja sẵn sàng chuẩn bị niệm chú để biến hình năm 1857 .
Sau khi hai gia tộc Iga và Koga sụp đổ, các lãnh chúa không còn thuê các chuyên viên chuyên nghiệp nữa mà họ tự rèn luyện người khác trở thành ninja. Trong luật quân sự chiến lược của chính sách Mạc phủ năm 1649, ninja chính thức được coi là một nghề từ thời gian này. Theo đó, các lãnh chúa có trên 10.000 koku ( khoảng chừng 50.000 giạ lúa ) sẽ được huấn luyện và đào tạo các ninja cho riêng mình .
Trong hai thế kỷ sau đó, nhiều tác phẩm về ninja được tác giả Hattori Hanzo và các thành viên của phái Fujibayashi viết, đáng chú ý quan tâm là tác phẩm Ninpiden ( 1655 ) Bansenshukai ( 1675 ) và Shōninki ( 1681 ) .
Các trường ngày này huấn luyện và đào tạo ninja nổi lên từ năm 1970, gồm có Masaaki Hatsumi, Stephen K. Hayes và Jinichi Kawakami. Tính chính danh của những trường này vẫn là chủ đề gây tranh cãi lớn .

Chiến thuật

Ninja thoát khỏi sự truy đuổi của kẻ địch nhờ cây tre .
Ninja không hoạt động giải trí một mình mà tập thể và theo nhóm. Chẳng hạn như để leo một bức tường thành, nhóm ninja hoàn toàn có thể làm thang để giúp người khác trèo lên. Các bài tập về leo tường được phong cách thiết kế với từng thử thách khác nhau, khởi đầu từ 1,2 mét rồi lên dần. Mức cao nhất để thử thách ninja hoàn toàn có thể lên tới 6 mét .
Cuốn sách Mikawa Go Fudoki cho biết các ninja thường sử dụng ám hiệu để tiếp xúc với nhau. Quyển sách này cũng nói tới trường hợp một ninja mặc áo giống hệt đối phương để gây ra sự hỗn loạn .

Hầu hết các kĩ thuật ninja được ghi trong các văn kiện cổ đều xoay quanh cách thức ẩn náu và tránh bị phát hiện.

Một số kĩ thuật được nhóm lại theo các nguyên tố tự nhiên như Hitsuke là kĩ thuật gây phân tán và đánh lạc hướng quân lính bằng cách nhóm lửa ở một khu vực đã định .
Kĩ thuật Tanuki-gakure là trèo lên cây và ẩn mình trong tán lá, còn gọi là “ kĩ thuật rừng ”. Kĩ thuật Ukigusa-gakure sử dụng bèo tấm trên mặt nước để ngăn cho sóng nước hoạt động, giúp ẩn mình tốt hơn. Để rèn luyện kĩ thuật Ukigusa-gakure, các ninja từ bé đã phải ngâm mình dưới nước, miệng ngậm ống sậy và tập thở trong nhiều giờ .
Kĩ thuật Uzura-gakure giúp cuộn mình như quả bóng và nằm im để giống tảng đá. Đây thường được gọi là kĩ thuật “ đất ”. Màu áo tối của ninja cũng giúp họ dễ triển khai kĩ thuật “ hóa đá ” hơn .
Những giải pháp và kĩ thuật ninja này thường sử dụng trong ám sát, phá hoại nhằm mục đích mục tiêu tiến công chớp nhoáng vào đêm hôm .
Đôi khi, họ tiến công trên địa hình nhỏ như bụi cây rậm, hiên chạy hẹp hoặc phòng truyền thống lịch sử kiểu Nhật. Lúc này ninja sẽ cần những vũ khí ngắn và cơ động. Ninja thường tránh trực chiến với kẻ địch, vậy nên kĩ thuật của họ thiên về tránh mặt quân địch và lẩn trốn trong trường hợp thất bại .

Thuật ẩn mình

Tranh khắc gỗ ninja chiến đấu với quái vật rắn năm 1843 .
Kĩ thuật ẩn mình thông dụng và được viết khá nhiều. Nó không phải là sự tàng hình trọn vẹn như nhiều người tưởng tượng mà đơn thuần chỉ là hóa thân thành các linh mục, anh hề, thầy bói hoặc lái buôn. Tác giả Buke Myōmokushō viết : “ Ninja là những người có phương pháp bí hiểm, hoạt động giải trí ở vùng núi và tự trà trộn vào quân địch mà không bị phát hiện. Họ là chuyên viên tích lũy thông tin mật ” .
Những bộ phục trang vùng núi có tên yamabushi rất tương thích trong việc chuyển dời đường dài. Những chiếc áo thụng của thầy tu được cho phép họ giấu các vũ khí, ví dụ điển hình như kiếm hoặc phi tiêu sắc nhọn. Hóa thân thành người hát rong hoàn toàn có thể giúp ninja xâm nhập thành tháp của kẻ địch mà không bị hoài nghi. Biến thành một vị sư cũng rất tương thích vì ninja thường đội một chiếc mũ rất lớn hoàn toàn có thể giấu phi tiêu thuận tiện .
Để rèn luyện thuật hóa thân thành thục, theo sử gia Turnbull, các ninja đều phải khởi đầu bằng các bài tập quan sát và mô phỏng. Sau khi nắm được các đặc trưng nghề nghiệp, các ninja mới rèn luyện hóa thân vào các ngành nghề khác nhau .
______
Ngoài năng lượng sức khỏe thể chất tiêu biểu vượt trội, các ninja luôn “ thủ ” sẵn trong người hàng loạt binh khí phong phú và nhiều công suất, sẵn sàng chuẩn bị tiễn đối phương về miền cực lạc. Đón đọc kì 3 : “ 9 loại vũ khí đáng sợ bậc nhất của ninja ” .

Source: https://final-blade.com
Category : Game