Hệ số nguy cơ phá sản (Z Score) là gì? Hạn chế của Z Score

Hệ số rủi ro tiềm ẩn phá sản ( tiếng Anh : Z Score ) được sử dụng trong thống kê để tính độ lệch chuẩn của quan sát với giá trị trung bình của bộ tài liệu. Z Score bộc lộ năng lực phá sản của một công ty trong kinh tế tài chính .The-Altman-Z-Score

Hình minh họa. Nguồn Etftrends.com

Hệ số nguy cơ phá sản

Khái niệm

Hệ số nguy cơ phá sản hay còn gọi là điểm số Altman, trong tiếng Anh là Z Score.

Z Score là một giá trị bằng số được sử dụng trong thống để xác định mối quan hệ của giá trị một diểm với giá trị trung bình bộ dữ liệu, hay độ lệch chuẩn so với giá trị trung bình. 

Nếu giá trị Z Score là 0, điều đó cho thấy điểm tài liệu trùng với điểm trung bình. Giá trị Z Score bằng 1 thì điểm tài liệu có 1 độ lệch chuẩn so với giá trị trung bình. Giá trị Z Score hoàn toàn có thể dương hoặc âm, với giá trị dương cho biết điểm nằm trên giá trị trung bình và điểm âm cho thấy nó nằm dưới giá trị trung bình .

Z Score là thước đo độ biến thiên của các quan sát và có thể được các nhà giao dịch sử dụng để xác định biến động thị trường.  

Công thức tính điểm Z của Altman

Z Score kiểm tra sức mạnh tín dụng thanh toán giúp nhà đầu tư nhìn nhận năng lực phá sản của một công ty sản xuất thanh toán giao dịch công khai minh bạch trên thị trường. Z Score dựa trên năm tỉ số kinh tế tài chính chính hoàn toàn có thể lấy được và giám sát từ báo cáo giải trình kinh tế tài chính hàng năm của công ty. Công thức được sử dụng để xác lập Z Score của Altman như sau :

Z Score =1.2A + 1.4B + 3.3C + 0.6D + 1.0E

Trong đó :A = Vốn lưu động / tổng tài sảnB = Thu nhập giữ lại / tổng tài sảnC = Thu nhập trước lãi và thuế ( EBIT ) / tổng tài sản

D = Giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu / giá trị sổ sách của tổng nợ 

E = Doanh số / tổng tài sảnThông thường, điểm dưới 1,8 cho thấy công ty có khuynh hướng hay đang chịu rủi ro đáng tiếc sự phá sản cao. Ngược lại, những công ty có điểm trên 3 ít có năng lực phá sản .

Z Score cho biết điều gì?

Z Score cho biết điểm dữ liệu có phải là điển hình cho một tập dữ liệu được chỉ định hay không. Ngoài ra, Z Score cũng giúp các nhà phân tích có thể ứng dụng các điểm dữ liệu từ nhiều bộ dữ liệu khác nhau để tạo ra các giá trị chung để so sánh chính xác hơn. Khả năng kiểm tra này là một ví dụ ứng dụng thực tế của Z Score.

Edward Altman là người đã tăng trưởng công thức tính Z Score vào cuối những năm 1960 nhằm mục đích cung ứng một giải pháp để những nhà đầu tư vô hiệu quy trình xác lập năng lực phá sản của một công ty vốn rất rắc rối và tiêu tốn thời hạn .

Sự khác biệt giữa Z Score và Độ lệch chuẩn

Độ lệch chuẩn về cơ bản phản ánh mức độ biến đổi trong một tập dữ liệu nhất định. Để tính độ lệch chuẩn, trước tiên ta tính chênh lệch giữa từng điểm dữ liệu và giá trị trung bình. Độ lệch chuẩn sau đó được bình phương lên, cộng tất cả lại và tính trung bình để tạo ra phương sai. Độ lệch chuẩn chỉ đơn giản là căn bậc hai của phương sai, đưa nó trở lại đơn vị đo ban đầu.

Ngược lại, Z Score là độ lệch chuẩn giữa điểm dữ liệu đã cho so với giá trị trung bình. Để tính Z Score, chỉ cần trừ giá trị trung bình cho mỗi điểm dữ liệu và chia kết quả đó cho độ lệch chuẩn.

Z Score âm thì điểm tài liệu đó được gọi là dưới mức trung bình. Trong hầu hết những tập dữ liệu lớn, 99 % những điểm tài liệu có giá trị Z Score trong khoảng chừng từ – 3 đến 3, nghĩa là chúng nằm trong ba độ lệch chuẩn trên và dưới giá trị trung bình .

Z Score Plus của Altman

Altman đã phát triển và phát hành Altman Z-Score Plus vào năm 2012. Công thức này được sử dụng để đánh giá cả công ty công và tư nhân và có thể được sử dụng cho các công ty phi sản xuất cũng như các công ty sản xuất. Z-Score Plus phù hợp cho các công ty ở Mỹ cũng như các công ty không ở Mỹ, bao gồm cả các công ty ở các nền kinh tế mới nổi, như Việt Nam.

Hạn chế của Z-Score

Z Score không phải là một công cụ hoàn hảo và cần được tính toán và giải thích cẩn thận. Đối với người mới bắt đầu tìm hiểu, việc tính toán Z Score có thể dẫn đến nhiều sai sót. Z-Score chỉ có giá trị chính xác và đúng khi dữ liệu đầu vào của nó chính xác.

Z Score cũng không được sử dụng nhiều cho những công ty mới có ít hoặc phần đông không có thu nhập. Các công ty này, bất kể sức khỏe thể chất kinh tế tài chính của họ như thế nào sẽ có điểm Z Score thấp. Ngoài ra, Z Score không bao hàm những yếu tố về dòng tiền trực tiếp, mà chỉ sử dụng tỉ lệ vốn trên gia tài lưu động ròng .Cuối cùng, Z Score hoàn toàn có thể giao động theo từng quí do những thành phần đo lường và thống kê ra nó đổi khác theo từng báo cáo giải trình quí của công ty, dẫn đến hiệu quả cuối cuồi biến hóa .

(Theo Investopedia)