Hội nghị quốc tế về Dân số và phát triển – Kết quả sau 25 năm thực hiện Chương trình hành động

Năm 1994, tại Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) được tổ chức ở Cairo (Ai Cập), với cùng quan điểm cho rằng, cơ sở để đạt được các mục tiêu về phát triển bền vững là cần đặt con người vào vị

trí

trung tâm, thực hiện trao quyền cho phụ nữ và cho phép mọi người dân được tự do quyết định thời điểm và khoảng cách giữa các lần sinh một cách phù hợp với hoàn cảnh của chính mình, 179 quốc gia (trong đó có Việt Nam) đã đồng thuận thông qua Chương trình hành động với tầm nhìn sâu rộng trong lĩnh vực dân số và phát triển. Đây là sự kiện đánh dấu một điểm khởi đầu mang tính đột phá, góp phần thúc đẩy sự hợp tác giữa các chính phủ và tổ chức quốc tế về các vấn đề dân số, sức khỏe sinh sản tình dục và quyền của phụ nữ nhằm đạt được sự phát triển công bằng và bền vững trên toàn cầu .

 

Những thay đổi của thế giới…

 

Việc thực thi tiềm năng “ tổng thể mọi người dân được tiếp cận với những dịch vụ chăm nom sức khỏe thể chất sinh sản tổng lực, trong đó gồm có những dịch vụ kế hoạch hóa mái ấm gia đình tự nguyện, với những dịch vụ chăm nom khi mang thai và sinh con, cũng như những dịch vụ phòng ngừa và điều trị những bệnh lây truyền qua đường tình dục ” của Chương trình hành vi ICPD đã làm đổi khác đáng kể quốc tế về yếu tố dân số và tăng trưởng .

 

Theo báo cáo của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), hiện nay tỷ lệ tiếp cận tự nguyện với các biện pháp tránh thai hiện đại trên thế giới đã tăng thêm 25% so với thời điểm năm 1994. Tỷlệ phụ nữ đã kết hôn tại các nước kém phát triển nhất có sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại tăng từ 15% năm 1994 lên 37%. Tỷlệ các ca tử vong mẹ do các nguyên nhân có thể phòng tránh được đã giảm 40%. Tỷlệ tử vong của phụ nữ khimang thai hoặc khisinh tại các nước kém phát triển nhất giảm xuống một nửa so với tỷ lệ 8/1.000 phụ nữ của năm 1994. Sau 25 năm, số con trung bình của một phụ nữ tại các quốc gia kém phát triển nhất giảm từ 6 con/phụ nữ năm 1994 xuống tối đa là 4 con/phụ nữ. Chất lượng các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình được cải thiện đáng kể. Các hành động và phong trào nhằm chấm dứt các hủ tục/hành vi có hại đối với phụ nữ và trẻ em gái được lan tỏa rộng rãi.

 

Hội nghị quốc tế về Dân số và phát triển - Kết quả sau 25 năm thực hiện Chương trình hành động
Ảnh minh họa, nguồn Internet

Tuynhiên, trênthế giới hiện vẫncó khoảng 214 triệuphụ nữ chưa đượcđáp ứng nhu cầu tiếpcận và sử dụngcác giải pháp tránh thai hiệnđại để giúphọ ngăn ngừa việc mang thai ngoàiý muốn .Mỗi ngày vẫncó hơn 800 phụ nữ tử vongdo các nguyên docó thể phòng ngừa được trong quy trình tiến độ mang thaivà sinhnở .Vẫncó hàng triệuphụ nữ không được tiếpcận và sử dụngcác dịchvụ kế hoạchhóa mái ấm gia đình hoặccác dịch vụđảm bảo việc sinh nở an toàn. Mục tiêu giảm tỷ lệ tử vong mẹ xuống dưới 75/100. 000 trẻ đẻ sống vẫn chưa đạt đượcnhư đã đề ra …


Một số tỷ lệ về dân số trên thế giới các năm 1994 và 2019

1994

2019

Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại – %

Trên toàn thế giới

52

58

Tại những vương quốc tăng trưởng

57

61

Tại những vương quốc kém tăng trưởng nhất

15

37

Tỷ suất sinh

Trên toàn thế giới

2,9

2,5

Tại những vương quốc tăng trưởng

1,6

1,7

Tại những vương quốc kém tăng trưởng nhất

5,6

3,9

Tỷ lệ tử vong mẹ: các ca tử vong mẹ do các nguyên nhân liên quan tới mang thai

Các ca tử trận mẹ do những nguyên do tương quan tới mang thai / 100.000 trẻ đẻ sống

369

216
(Số liệu năm2015)

Tỷ lệ các nhu cầu về kế hoạch hóa gia đình được đáp ứng (các biện pháp tránh thai hiện đại) – %

Trên khoanh vùng phạm vi toàn thế giới

72

78

Tại những vương quốc tăng trưởng

72

79

Tại những vương quốc kém tăng trưởng nhất

31

59

Nguồn : Quỹ Dân số Liên hợp quốc

… và thành tựu của Việt Nam

 

Là một nước thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam không chỉ tham gia các hoạt động xây dựng vàthông qua Chương trình hành động Hội nghị mà còn tích cực thực hiện và đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu trong Chương trình hành động ICPD 1994. Kết quả này cũng là những nỗ lực của Việt Nam, khi cùng với các quốc gia khác trên thế giới thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 về Phát triển bền vững.

 

Qua 25 năm thực hiện Chương trình hành động ICPD, công tác dân số Việt Nam đã đạt được nhiều thànhtựu to lớn, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

 

Trướchết, tốc độ gia tăng dân số quá nhanh được khống chế thành công. Theo kết quả sơ bộ Tổng điều traDân số và Nhà ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm giai đoạn 1989 – 1999là 1,7 %, đã giảm xuống còn 1,18 % giai đoạn 1999 – 2009 và chỉ còn 1,14 % giai

đoạn

2009 – 2019 .

 

Bên cạnh đó, cơ cấu dân số có những chuyển biến tích cực, tạo cơ hội cho phát triển nhanh kinh tế – xã hội. Theo số liệu của Bộ Y tế, từ năm 1989 đến nay, dân số dưới 15 tuổi giảm mạnh từ 39,2% xuống 24,0%; dân số trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi) tăng từ 56,1% lên 68,4%; dân số 65 tuổi trở lên tăng từ 4,7% lên 7,6%.

Ngoài ra, chất lượng dân số, đặc biệt là tầm vóc và thể lực của người Việt Nam có bước cải thiện đáng  kể. So với thời điểm năm 1993, đến nay chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam tăng thêm 3cm, đạt 164cm ở nam và 153cm ở nữ. Tuổi thọ trung bình tăng từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 73,5 tuổi vào năm 2018, cao hơn hẳn các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Số năm sống trung bình sau khi đạt 60 tuổi của người Việt Nam đã tương đương nhiều nước châu Âu. Chỉ số phát triển con người tăng nhanh và đạt mức 

trung bình so với những nước trên quốc tế .

Sự phân bố dân số gắn với đô thị hóa, công nghiệp hóa cơ bản đáp ứng nhu cầu lao động, giải quyết tình trạng mất cân đối lao động – việc làm. Tỷ lệ dân số đô thị đã tăng từ 20% năm 1993 lên 34,9% năm 2017. Các dịch vụ nâng cao chất lượng dân số như khám sức khỏe trước hôn nhân; tầm soát, chẩn đoán và điều trị sớm các bệnh, tật trước sinh và sơ sinh được triển khai, từng bước mở rộng. Dịch vụ chăm sóc người cao tuổi cũng như các dịch vụ phục vụ nhu cầu của người cao tuổi bước đầu phát triển.

 

Cùng với đó, Việt Nam cũng đạt được những thành tựu trong việc đảm bảo tiếp cận với các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Tỷlệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại đã tăng từ 37% vào năm 1988 

lên 66,3 % vào năm 2018 .Tỷlệ tử trận mẹ trên toàn nước đã giảm đáng kể từ 233 / 100.000 ca sinh sống năm 1990 xuống còn 58/100. 000 ca sinh sống vào năm năm nay. Số con trung bình của mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 2,33 con năm 1999 xuống đạt mức sinh thay thế sửa chữa 2,09 con vào năm 2006, sớm hơn 10 năm so với tiềm năng Nghị quyết Trung ương 4 ( Khóa VII ) và liên tục được duy trì cho đến nay .Tỷlệ suy dinh dưỡng và tỷ suất tử trận trẻ nhỏ đã giảm 2/3 .

Việt Nam đồng thời đã có những ứng phó hiệu quả đối với các vấn đề dân số mới nổi như có các chính sách và chương trình để cải thiện và kiểm soát ung thư cổ tử cung; giảm các nhu cầu chưa được đáp ứng về các phương tiện tránh thai trong nhóm thanh niên chưa kết hôn; cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục giớitính toàn diện cho thanh thiếu niên; cải thiện việc phòng ngừa và ứng phó với các hành vi có hại như bạo lực trên cơ sở giới, mất cân bằng giới tính khi sinh…

 

Đáng chú ý là công tác tuyên truyền, giáo dục dân số được triển khai sâu rộng, thường xuyên ở tất cả các cấp, ngành, cộng đồng, gia đình và từng cặp vợ chồng. Hình thức, sản phẩm truyền thông đa dạng, phong phú, chất lượng ngày càng cao, phù hợp từng nhóm đối tượng và lứa tuổi với nội dung tuyên truyền thiết thực, sinh động, dễ hiểu. Vớiphương châm “ đitừng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng ” ,đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng tác viên, tuyên truyền viên đã phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng trong tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình.

 

Tuynhiên ,bên cạnh những mặt tíchcực cũng còn tồntại một số thử tháchđối vớisự tăng trưởngbền vữngcủa đất nước. Mặc dù tốc độ gia tăng quy mô dân số quá nhanh đã được khống chế, tuy nhiên mức sinh còn chênh lệch lớn giữa các khu vực và xuất hiện tình trạng mức sinh giảm quá mức ở một số khu vực. Kết quả sơ bộ Tổngtìm hiểuDân số và Nhà ở năm 2019của Tổngcục Thốngkê cũngcho thấy ViệtNam là một trongcác quốcgiađôngdân và có mậtđộ dân số cao so vớicác nước trongkhu vực và trênthế giới .Bên cạnhđó ,tỷ số giới tínhkhi sinh của Việt Nam tăng liên tục qua các năm. Kết quả TĐT Dân số và Nhà ở năm 2009 cho thấy tỷ số giới tínhkhi sinh là 110,6 trẻ em trai / 100 trẻ em gái, cao hơn đáng kể so với chuẩn sinh học bình thường dao động trongkhoảng 104 – 106 trẻ em trai cho 100 trẻ em gái. Năm 2018, tỷ số này lên đến 115,1 bé trai / 100 bé gái. Tình trạngmất cân bằng giới tính khi sinh tiếp tục có xu hướng lan rộng ở cả thành thị và nông thôn. Tổng cục Dân số dựbáo ,ViệtNam sẽ thiếukhoảng 2,3 – 4,3 triệuphụ nữ vàonăm 2050nếu không có những giải phápcan thiệp quyết liệt. Điều này sẽ gây ra nhiều hệ lụy cho sự phát triển bền vững của nước ta .

 

Ngoài ra, những lợi thế của cơ cấu dân số vàng mang lại chưa được khai thác tốt; Già hóa dân số và nhu cầu chăm sóc người cao tuổi tăng nhanh nhưng chưa có chiến lược thích ứng; Việc phân bổ dân số chưa hợp lý, công tác quản lý dân cư còn phân tán, lạc hậu; Chất lượng dân số còn nhiều hạn chế…

 

Bên cạnh đó là các vấn đề: Một số cơ chế, chính sách về dân số chậm đổi mới ; Nguồn lực đầu tư cho dân số ,kế hoạchhóa mái ấm gia đình chưa tương ứng với yêucầu do ngân sáchtừ Trungươngcấp cho côngtác dân số cònhạn hẹp ,trongkhi nguồn viện trợtừ các dự án quốc tếcó xu hướng cắt giảm ; Cơsở vật chất, trang thiết bịcủa ngành dân số ở địa phương ngày càng thiếu thốn, xuống cấp …

 

Để tương hỗ thực thi Chương trình nghị sự 2030 và Chương trình hành vi ICPD, UNFPA đã đặt ra tiềm năng “ Ba Không ” và mong ước đạt được những tiềm năng này vào năm 2030, đó là : KHÔNG còn nhu yếu chưa được cung ứng về những giải pháp tránh thai ; KHÔNG có thực trạng tử trận mẹ do những nguyên do hoàn toàn có thể ngăn ngừa ; KHÔNG còn những hành vi đấm đá bạo lực hoặc có hại so với phụ nữ và trẻ em gái .

 

Thực hiện tiềm năng này, theo UNFPA, những vương quốc cần khai thác và sử dụng một cách có hiệu suất cao những cống phẩm nhân khẩu học ; kiến thiết xây dựng một xã hội công minh và không bỏ rơi bất kể ai lại phía sau, cũng như cần kiến thiết xây dựng một xã hội mà không sống sót những sự tẩy chay và phân biệt đối xử .

 

Đối với Việt Nam, để tiếp tục thực hiện các mục tiêu của Chương trình hành động ICPD cũng như định hướng mới của UNFPA ,trong thời gian tới, công tác dân số sẽ đặc biệt tập trung vào duy trì vững chắc mứcsinh thay thế; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả lợi thế cơ cấu dân  số vàng; thích ứng với già hóa dân số một cách chủ động; phân bố dân số hợp lý; từng bước nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 21-NQ/

TW

ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới. Các bước đi trên cũng đồng thời sẽ giúp Việt Nam thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs)./.

 

TS. Cao Thị Hà
Học viện Hành chính Quốc gia