Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp – Bản chất của giao tiếp – 123docz.net

1. Bản chất của giao tiếp

1.6. Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp

Ngôn ngữ là quá trình con người sử dụng một thứ tiếng nào đó để giao tiếp, tư duy.

98

– Âm giọng

Nên sử dụng những giọng nói rõ ràng, êm ái, dịu dàng, nhã nhặn, từ tốn, trong trẻo và
ấm áp.

Tuỳ theo cảm xúc, thái độ và ý tứ của người nói mà âm điệu khác nhau, lúc mềm mại,
lúc gay gắt. Để thu hút được người nghe, giai điệu cần thay đổi trong quá trình thể hiện. Lúc
lên bổng, lúc xuống trầm; lúc nhấn nhá, lúc thả giọng…

– Ngôn từ

+ Nên dùng từ đẹp, từ thanh nhã, dung dị.

Chẳng hạnh như: Vui lòng, làm ơn, nên chăng, có thể, theo tôi nghĩ, rất tiếc…Ví dụ:
Ông vui lòng cho xem hộ chiếu. Nên chăng chúng ta cùng trao đổi thêm về việc này vào dịp
khác.

+ Tránh dùng những từ mạnh.

Chẳng hạn như: Xấu quá, kém cỏi thế, nhầm, yêu cầu, cần phải…Ví dụ. Ông hoàn toàn
sai lầm. Tôi yêu cầu bà cho biết số tài khoản. Cô ấy có nước da xám xịt.

+ Hạn chế tối đa dùng từ ”không” Ví dụ: Em không thích món quà này. Tôi không
đồng ý với ý kiến của anh.

+ Thể hiện sự tôn kính, lịch thiệp:

Để thể hiện sự tôn kính, lịch thiệp nên dùng những từ xưng hô, như: Thưa ông, thưa bà,
thưa bác, thưa các anh, các chị… Vì con người ai cũng muốn được người khác tôn trọng.

+ Tạo cảm giác hứng thú, hấp dẫn, lôi cuốn lòng người.

Nên dùng từ có biểu cảm, có hình ảnh, màu sắc , đôi khi pha thêm chút hài hước. Ví
dụ: Thành phố Hoa phượng đỏ, Cố đô Huế, đất nước Hoa Anh đào, xứ sở sương mù…

+ Tăng sự chú ý và tạo được sức thuyết phục cao trong khi người nghe đang chần chừ,
do dự. Ví dụ: dùng các từ: Tuy nhiên, chẳng hạn, song, tất nhiên, bởi vậy, chắc chắn, khẳng
định…

Chú ý: Khi sử dụng ngôn từ cần chú ý tới hoàn cảnh, ngữ cảnh và đối tượng tham gia
giao tiếp cụ thể để chọn loại ngôn từ gì, ở chừng mực nào cho thích hợp, chứ khộng nên lạm
dụng chúng một cách thái quá.

Ngôn ngữ nói chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa, sắc thái biểu cảm phong phú. Tuy
nhiên, sử dụng chúng cũng rất phức tạp và đa dạng. Để sử dụng ngôn ngữ nói có hiệu quả
chúng ta phải luôn quan tâm tới âm giọng, ngôn từ và phối hợp hài hoà, hợp lý giữa chúng để
biểu đạt sắc thái, tình cảm của mình.

99

Thường được sử dụng trong các hoạt động giao tiếp mà ở đó đòi hỏi phải rõ ràng, cần
lưu giữ hoặc không có điều kiện sử dụng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ biểu cảm.

So với ngôn ngữ nói thì ngôn ngữ viết đòi hỏi cao hơn về ngữ pháp văn phạm so với
ngôn ngữ nói. Viết phải rõ ràng, trong sáng, mạch lạc, phải cân nhắc từng từ, từng câu. Chỉ
cần một sai sót nhỏ trong văn bản thì có thể làm lợi hay thiệt hại hàng triệu đồng hoặc kết quả
nhận được sẽ bị biến dạng rất lớn (Ví dụ: các hợp đồng kinh tế…)

1.6.3. Ngôn ngữ biểu cảm

Ngôn ngữ biểu cảm còn gọi là ngôn ngữ không lời. Thông qua nét mặt, nụ cười, ánh
mắt, cái bắt tay, dáng đi đứng, cách ngồi,… ngôn ngữ biểu cảm toát lên, bộc lộ ra toàn bộ thái
độ, tình cảm của con người.

Ngôn ngữ biểu cảm đóng vai trò quan trọng làm tăng thêm giá trị của ngôn ngữ nói,
thậm chí làm chức năng thay thế ngôn ngữ nói. Song để tiếp nhận nội dung thông tin do ngôn
ngữ biểu cảm phát ra không phải dễ dàng gì nếu hai bên không có cùng bộ mã.

1.6.3.1. Ánh mắt, nét mặt, nụ cười

+ Ánh mắt:

Ánh mắt được xem là cửa sổ của tâm hồn, ánh mắt phản ánh tâm trạng, những xúc cảm,
tình cảm của con người như vui, buồn, tức giận, sợ hãi, lo lắng hay yên tâm. Ánh mắt cũng có
thể cho ta biết mong muốn, ý nghĩ của người đối thoại, Ánh mắt không chỉ bộc lộ tâm hồn của
con người mà còn là con đường chủ yếu mà qua đó các thông tin cảm tính từ môi trường bên
ngoài là do mắt cung cấp. Vì vậy, trong giao tiếp nhất thiết chúng ta phải biết sử dụng mắt,
biết giao tiếp bằng mắt. Nhưng sử dụng mắt như thế nào thì lại là một vấn đề không đơn giản,
có cái nhìn làm bạn cảm thấy tự tin, thoải mái, gần gũi, nhưng cũng có cái nhìn làm bạn lo
lắng, phân vân.

Để sử dụng mắt có hiệu quả, cần lưu ý một số điểm sau:

– Nhìn thẳng vào người đối thoại: cái nhìn phải tự nhiên, nhẹ nhàng, bao quát toàn bộ
con người họ chứ không nhìn một điểm nào đó trên khuôn mặt.

– Không nhìn chăm chú vào người khác: chúng ta không nên nhìn chăm chú vào con
người; chỉ nhìn chăm chú vào những gì không phải là con người (nếu chúng ta đưa mắt nhìn

chăm chú vào một người nào đó, thì người đó sẽ cảm thấy lo lắng, khó chịu, tựa như họ có
một sai sót, một điểm gì đó không bình thường và đang bị người khác soi mói).

– Không nhìn người khác với ánh mắt coi thường, giễu cợt hoặc không thèm để ý. Với
những người có giáo dục, một trong những biểu hiện quan trọng của họ là có thể khống chế
được cảm xúc, tình cảm của mình, không dễ dàng để cho những cảm xúc của mình bộc lộ ra
bên ngoài và ảnh hưởng đến những người xung quanh. Vì vậy, trước một con người hoặc sự
việc mà chúng ta không ưa thích, nếu chúng ta vội vàng nhìn họ bằng nửa con mắt thì điều đó
chỉ chúng ta là con người hẹp hòi, không được giáo dục tốt.

100

– Không đảo mắt hoặc đưa mắt liếc nhìn một cách vụng trộm. Trong giao tiếp xã giao,
đảo mắt, đưa mắt nhìn một cách vụng trộm thường được xem là những người không đường
hoàng, thậm chí của kẻ xảo trá, thâm độc, kẻ gian hùng. Vì vậy khi đang trò chuyện với một
người mà muốn di chuyển mắt nhìn sang một người khác hoặc một sự vật khác thì hãy làm
điều đó một cách từ từ, nhẹ nhàng, không đảo mắt hoặc liếc nhanh một cách vụng trộm. Điều
đó nói lên không chỉ sự quang minh chính đại mà cả sự tự tin của bạn nữa.

– Không nheo mắt hoặc nhắm cả hai mắt trước mặt người khác: trong các cách nhìn,
nheo mắt (nhắm một mắt) hoặc nhắm cả hai mắt là một cách nhìn có nhiều ý nghĩa. Trước mặt
những người không thật quen biết không nên làm như thế.

+ Nét mặt:

Nét mặt thể hiện thái độ, cảm xúc của con người. Các nhà tâm lý học cho rằng nét mặt
biểu lộ cảm xúc (buồn, ngạc nhiên, sự hãi, tức giận và ghê tởm). Những biểu cảm khác nhau
qua nét mặt là do những sự kết hợp khác nhau về vị trí của mắt, môi, mí mắt và lông mày. Nét
mặt còn cho ta biết ít nhiều về cá tính con người. Người vô tư, lạc quan, yêu đời thì nét mặt
thường vui vẻ; người vất vả lo nghĩ nhiều thì vẻ mặt thường căng thẳng, trầm tư…Người xưa
nói “nhìn mặt mà bắt hình dong” cũng là vì vậy.

+ Nụ cười:

Nụ cười là một phương tiện giao tiếp quan trọng chứa đựng nhiều nội dung phong phú,
nụ cười không chỉ biểu hiện thái độ, tình cảm của con người mà cả những nét tính cách nhất
định của họ nữa. Khi chúng ta tươi cười với người khác, đó là chúng ta “nói” với họ rằng: tôi
rất mừng vì được gặp anh, tôi sẵn sàng tiếp chuyện anh, anh là người được hoan nghênh ở
đây.

Như vậy, nụ cười biểu hiện thái độ tích cực của chúng ta, là “lời” mời chào hữu hiệu
nhất, nó có thể giải toả cả những ý tưởng đối địch ở người khác. Trong giao tiếp, có lẽ không
có gì dở bằng một bộ mặt cau có, lầm lì, lạnh lùng không biết mỉm cười.

Người Trung Quốc nói rằng ” Ai không biết mỉm cười thì đừng nên mở tiệm”.

Trong cuốn “Đắc nhân tâm” tác giả Dale Carnegie chỉ ra những lợi ích sau đây của nụ
cười:

+ Nụ cười chẳng tổn hao gì mà lợi thật nhiều;

+ Nụ cười không làm nghèo người phát nó, nhưng làm giàu người nhận nó;
+ Nụ cười chỉ có trong khoảnh khắc, nhưng có khi làm ta nhớ suốt đời;

+ Kẻ phú quý đến bậc nào mà không có nó thì cũng vẫn còn nghèo, còn kẻ nghèo hèn
đến đâu mà sẵn sàng có nó thì vẫn còn cái vốn vô tận;

101

+ Nó bồi dưỡng kẻ mệt nhọc, nó là hình ảnh bình minh cho kẻ ngã lòng, là nắng xuân
cho kẻ buồn rầu và là thuốc mầu nhiệm của tạo hoá để chữa lo âu;

+ Nụ cười không thể mua được, không thể xin được, không mượn được, mà cũng
không thể ăn cắp được. Nếu như ta khư khư giữ nó thì nó chẳng có giá trị gì, nhưng nếu ta
dùng nó một cách rộng rãi thì giá trị vô cùng.

Tuy nhiên, có nhiều nụ cười khác nhau và không phải nụ cười nào cũng tốt. Nụ cười
phải tự nhiên, chân thành thì mới có hiệu quả. Trong các kiểu cười, mỉm cười có lẽ là kiểu
cười tốt nhất phù hợp với nhiều tình huống giao tiếp. Cần tránh những kiểu cười như: cười hô
hố, cười ha hả, cười ré lên ở nơi công cộng, cười nhạt, cười lẳng lơ, cười hàm hồ, cười vô
nghĩa.

1.6.3.2. Trang phuc,̣ trang điểm và trang sức
+ Trang phuc ̣:

Việc chúng ta ăn mặc như thế nào trong giao tiếp không những thể hiện khiếu thẩm
mỹ, văn hoá giao tiếp của chúng ta mà còn thể hiện thái độ của chúng ta đối với người khác và
đối với công việc.

Quần áo có nhiều chủng loại, nhiều kiểu dáng, màu sắc, có thể nói là muôn màu, muôn
vẻ, có thể tuỳ theo từng trường hợp, tuỳ theo mùa, tuỳ theo sở thích cá nhân, đặc điểm của địa
phương và dân tộc để chọn cách ăn mặc cho phù hợp. Trong những trường hợp long trọng,
nghiêm trang, nghi lễ chính thức thì lễ phục phù hợp hơn; còn trong những trường hợp thông
thường thì mặc thường phục.

Tuy nhiên trong bất kỳ trường hợp nào ăn mặc đều phải sạch sẽ, chỉnh tề, phù hợp với
khổ người, màu da, khuôn mặt, không chỉ về kích thước mà còn về màu sắc hoa văn và kiểu
dáng.

+ Trang điểm và trang sức:

Không nên đeo quá nhiều trang sức vì như thế dễ gây ấn tượng nặng nề, khoe của. Khi
tiếp khách, đi làm, nữ giới nên trang điểm nhẹ nhàng không nên trang điểm đậm và loè loẹt
quá dễ bị đánh giá là ăn chơi, thiếu nghiêm túc.

1.6.3.3. Tư thế, động tác

+ Tư thế đi:

Tư thế đi đẹp là nhanh và nhẹ nhàng, đầu ngẩng cao, ngực hơi ưỡn về phía trước một
chút. Tư thế đi như vậy không những chứng tỏ đó là con người tự tin, năng động, giàu nghị
lực, đang hướng đến những công việc quan trọng, mà còn góp phần tạo nên những phẩm chất
đó.

Có người đi nhanh nhưng đầu lại cúi xuống nghĩa là lầm lũi đi, đó là tư thế đi của
những con người tất bật, vất vả, không biết nhìn xa trông rộng.

102

Có người dò dẫm đi từng bước ngắn, đó là con người hay nghi ngại, thiếu tự tin.

Có người chậm rãi, ung dung thư thái thả chân từng bước một đó là người nhàn rỗi,
không có việc gì quan trọng để giải quyết.

Khi đi nếu bạn xách cặp thì hãy dùng tay trái, để tay phải luôn sẵn sằng chìa ra khi cần
(bắt tay người khác, cầm, nắm, đỡ…).

+ Tư thế đứng:

Tư thế đứng đẹp là tư thế đứng thẳng người, ngẩng cao đầu, vai không nhô ra phía
trước, ngực thẳng, hai tay buông xuôi tự nhiên, lòng bàn tay hướng vào trong, ngón tay giữa
hơi chạm vào quần; nhìn một bên, từ mép tai cho đến mắt cá chân phải là một đường thẳng.
Tư thế đứng như vậy sẽ làm cho người khác cảm thấy chúng ta là một con người đường
hoàng, tự tin và phóng khoáng; không đứng đút tay túi quần, không chắp tay ra sau lưng hoặc
khoanh tay, vì đó là dấu hiệu của sự thiếu cởi mở, sự tự mãn.

+ Tư thế ngồi:

Khi ngồi phải có tư thế đứng đắn, thoải mái, tự nhiên, thanh thản. Trong những quan hệ
giao tiếp chính thức, dù là ngồi trên ghế đệm hay ghế thường, tốt nhất không nên ngồi choán
hết chỗ, không nghiêng về một bên, lưng và đầu phải thẳng để tỏ ra bạn là một người có tinh
thần cao và đang sẵn sàng tiếp chuyện, tuy nhiên đừng để người đối thoại cảm thấy tư thế của
bạn là cứng nhắc. Nếu ngồi lâu, cảm thấy mệt, bạn có thể tựa lưng, nhưng không được duỗi
chân ra theo kiểu nửa nằm nửa ngồi.

Khi ngồi, tay để lên tay vịn của ghế hoặc lên đùi, hoặc lên bàn nếu có bàn ở phía trước;
hai chân nên khép lại hoặc chỉ để hở một chút, nam giới có thể bắt chéo chân nhưng không
ghếch chân quá cao, không rung chân; nữ giới có thể gác bàn chân lên nhau nhưng không
được duỗi thẳng chân ra phía trước. Trước khi ngồi, phải kiểm tra xem ghế có bị bẩn không.
Khi bắt đầu ngồi xuống, cần phải nhẹ nhàng, chắc chắn. Nếu nữ giới mặc váy hay áo dài lưu ý
đừng để váy, áo bị gấp hoặc bị nhàu.

Nếu đối diện là một người lớn tuổi, nên chọn chỗ ngồi thấp hơn một chút, tư thế ngồi
không nên quá thoải mái, không nên bắt chéo chân=> Như vậy, tư thế đi, đứng, ngồi của một
người không chỉ đơn thuần là vẻ đẹp bề ngoài mà còn biểu hiện thái độ và những nét tính cách
nhất định của người đó.

+ Động tác:

Động tác cũng là một loại ngôn ngữ không có âm thanh trong giao tiếp, nó bao gồm các
cử chỉ bằng đầu như gật đầu, lắc đầu; các cử chỉ bằng tay như đưa tay ra để minh hoạ khi nói,
vẫy tay, chỉ trỏ và một số cử chỉ khác…Tuy nhiên động tác của chúng ta phải hợp lý, tự nhiên
và cần tránh những động tác dưới đây:

103

+ Gác đầu gối và chĩa mũi chân vào phía người đối thoại;
+ Ngáp, vươn vai;

+ Cắn móng tay, ngoáy tai;

+ Dẫm chân, rung đùi hoặc dùng ngón tay gõ xuống bàn;
+ Xem đồng hồ;

+ Vắt tay sau cổ;

+ Khoanh tay trước ngực;
+ Bỏ tay vào túi quần;
+ Huýt sáo;

+ Dụi mắt, gãi đầu;

+ Nhả khói thuốc vào người khác;

+ Khi nói hếch hếch cằm để chỉ người đối thoại.

=> Các động tác trên đều thể hiện thái độ thiếu tôn trọng người đối thoại và văn hoá
giao tiếp thấp kém.

1.6.3.4. Khoảng cách, vị trí

+ Khoảng cách:

Theo nhiều nhà giao tiếp học (Erdward Hall, Allan Pease…) sự tiếp xúc giữa con

người diễn ra trong bốn vùng khoảng cách sau đây:
– Khoảng cách công cộng (> 3,5m)

Ví dụ: Khi bạn nói chuyện tại cuộc mít tinh, diễn thuyết trước công chúng thì khoảng
cách thuận lợi nhất từ nơi bạn đứng đến dãy bàn đầu tiên dành cho người nghe là 3,5m.

– Khoảng cách xã hội (từ khoảng 1,2m-3,5m)

Đây là vùng khoảng cách thường được chúng ta duy trì khi tiếp xúc với những người
xa lạ. Ví dụ: khi chúng ta hỏi đường, hỏi giờ…

– Khoảng cách cá nhân (0,45m – 1,2m)

Khoảng cách này thường được sử dụng khi cùng tham dự bữa tiệc, khi giao tiếp ở cơ
quan hay khi gặp mặt bạn bè.

– Khoảng cách thân mật (0m – 0,45m)

Đây là khoảng trời riêng của mỗi con người. Chỉ những ai thật gần gũi, thân thiết,
chiếm được thiện cảm của chủ nhân mới được bước vào.

104

+ Vị trí:

Sự sắp đặt bàn và chỗ ngồi trong giao tiếp cũng phản ánh mối quan hệ giữa những
người giao tiếp với nhau. Sau đây là một số vị trí phổ biến trong trường hợp một bàn và hai
người.

– Vị trí góc

Phù hợp với những câu chuyện tế nhị và lịch sư,̣nó cho phép hai người có thể nhìn vào

(Trang 97 -104 )

Một phần của tài liệu
GIAO-TRINH-TAM-LY-VA-KNGT-VOI-KDL