Phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận qua Lửa Thiêng – Tài liệu, ebook, giáo trình

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ KIM ỬNG
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
THƠ HUY CẬN QUA LỬA THIÊNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số : 62 22 34 01
TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. MAI QUỐC LIÊN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
LỜI CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
được trình bày trong luân án này là trung thực và chưa được công

pdf

168 trang

|

Chia sẻ: huyen82

| Lượt xem: 6010

| Lượt tải: 18

download

Tóm tắt tài liệu Phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận qua Lửa Thiêng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Kim Ửng
MỤC LỤC
1TMỤC LỤC1T ……………………………………………………………………………………………………………. 3
1TDẪN LUẬN1T ………………………………………………………………………………………………………….. 5
1T . Lý do chọn đề tài1T …………………………………………………………………………………………………………………. 5
1T2. Mục đích nghiên cứu1T ……………………………………………………………………………………………………………. 6
1T3. Lịch sử vấn đề1T …………………………………………………………………………………………………………………….. 6
1T4. Nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu1T ………………………………………………………………………….. 14
1T4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu1T …………………………………………………………………………………………………… 14
1T4.2. Đối tượng nghiên cứu1T ………………………………………………………………………………………………….. 14
1T5. Phạm vi khảo sát1T ……………………………………………………………………………………………………………….. 14
1T6. Phương pháp nghiên cứu1T …………………………………………………………………………………………………….. 14
1T7. Những đĩng gĩp mới của luận án1T …………………………………………………………………………………………. 16
1T7.1 Ý nghĩa khoa học1T …………………………………………………………………………………………………………. 16
1T7.2 Ý nghĩa thực tiễn1T …………………………………………………………………………………………………………. 16
1T8. Cấu trúc luận án1T ………………………………………………………………………………………………………………… 17
1TChương 1 NHỮNG NHÂN TỐ HÌNH THÀNH PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THƠ
HUY CẬN1T ………………………………………………………………………………………………………….. 18
1T .1. Khái niệm “phong cách”1T …………………………………………………………………………………………………… 18
1T .1.1.Phong cách theo quan niệm lý luận văn học phương Tây1T …………………………………………………. 19
1T .1.2. Phong cách theo quan niệm lý luận văn học phương Đơng1T ………………………………………………. 21
1T .1.3. Phong cách theo quan niệm lý luận văn học Việt Nam1T ……………………………………………………. 22
1T .1.4. Phong cách theo cách hiểu và lựa chọn của người viết luận án:1T ………………………………………… 25
1T .2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành phong cách thơ Huy Cận1T ………………………………………… 26
1T .2.1. Gia đình và quê hương1T ………………………………………………………………………………………………. 26
1T .2.2. Truyền thống văn hĩa của một vùng đất (thơ ca bác học, thơ ca dân gian, văn hĩa, văn nghệ dân
gian…)1T ……………………………………………………………………………………………………………………………. 28
1T .2.3. Những vùng đất học của Huy Cận1T ……………………………………………………………………………….. 31
1T .2.4.“Tình bạn trái đơi” Huy Cận- Xuân Diệu1T ………………………………………………………………………. 32
1T .3. Những dấu ấn đổi mới của Việt Nam đầu thế kỷ XX1T …………………………………………………………….. 34
1T .3.1. Một tổng thể văn hĩa mới ra đời1T …………………………………………………………………………………. 34
1T .3.2. Thơ mới khẳng định vị trí trên thi đàn1T ………………………………………………………………………….. 39
1T .4. Tiểu kết chương 1:1T…………………………………………………………………………………………………………… 40
1TChương 2: PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THƠ HUY CẬN THỂ HIỆN QUA VŨ
TRỤ THƠ LỬA THIÊNG1T …………………………………………………………………………………….. 41
1T2.1. Cảm hứng sáng tạo và giọng điệu thơ của Huy Cận1T ………………………………………………………………. 41
1T2.2. Sự thể hiện vũ trụ thơ qua Lửa thiêng1T …………………………………………………………………………………. 45
1T2.2.1. Tủ mới đĩng và lịng trai thơm ngát – Cảm hứng Tuổi trẻ với nhiều mộng mơ1T ……………………. 47
1T2.2.2. Than ơi, trời đẹp nhưng trời buồn – Cảm hứng Cái Đẹp: Đẹp là buồn.1T ………………………………. 50
1T2.2.3. Thuyền về nước lại sầu trăm ngả – Cảm hứng Nước- Nỗi buồn và Tình yêu1T ……………………….. 54
1T2.2.4. Tai dưới đất để nghe chừng tiếng sĩng- Cảm hứng Đất- sự suy tưởng về lẽ sống, chết 1T …………. 58
1T2.2.5. Vì đã nâng bình lửa ấp lên mơi – Cảm hứng Lửa – sự hồi niệm về sứ mệnh thắp sáng chưa trịn
của nhà thơ1T ………………………………………………………………………………………………………………………. 61
1T2.2.6. Hình ảnh lung linh vũ trụ tàn – Cảm hứng Khơng gian vũ trụ và nỗi cơ đơn1T ……………………….. 65
1T2.2.7. Đời mất về đâu hỡi tháng năm – Cảm hứng cuộc Đời – Khát vọng lý tưởng của nhà thơ1T ………. 71
1T2.3. Ảnh hưởng của văn chương trong thơ Huy Cận1T ……………………………………………………………………. 76
1T2.3.1 Ảnh hưởng văn chương Việt Nam cổ điển, thơ ca dân gian trong thơ Huy Cận1T ……………………. 76
1T2.3.1.1 Ảnh hưởng văn chương Việt Nam cổ điển1T ………………………………………………………………. 76
1T2.3.1.2 Ảnh hưởng thơ ca dân gian1T …………………………………………………………………………………… 79
1T2.3.2. Ảnh hưởng thơ Đường và thơ Pháp trong thơ Huy Cận1T …………………………………………………… 80
1T2.3.2.1 Ảnh hưởng thơ Đường1T ………………………………………………………………………………………… 80
1T2.3.2.2.Ảnh hưởng thơ Pháp1T ……………………………………………………………………………………………. 84
1T2.4. Tiểu kết chương 2:1T…………………………………………………………………………………………………………… 86
1TChương 3: PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THƠ HUY CẬN THỂ HIỆN QUA NGƠN
NGỮ THƠ LỬA THIÊNG1T ……………………………………………………………………………………. 88
1T3.1. Phong cách thơ Huy Cận qua nghệ thuật ngơn từ Lửa thiêng1T ………………………………………………….. 88
1T3.1.1. Từ1T ………………………………………………………………………………………………………………………….. 90
1T3.1.1.1.Thao tác lựa chọn từ1T ……………………………………………………………………………………………. 90
1T3.1.1.2. Thao tác kết hợp từ1T …………………………………………………………………………………………….. 95
1T3.1.2. Từ láy1T …………………………………………………………………………………………………………………….. 99
1T3.2. Phong cách thơ Huy Cận qua nhạc tính trong Lửa thiêng1T ……………………………………………………… 101
1T3.2.1. Nhạc tính thể hiện trong thể loại thơ 7 chữ, 8 chữ của Huy Cận1T ……………………………………… 101
1T3.2.1.1. Vần1T ……………………………………………………………………………………………………………….. 101
1T3.2.1.2. Nhịp1T ………………………………………………………………………………………………………………. 104
1T3.2.1.3. Thanh điệu1T ……………………………………………………………………………………………………… 106
1T3.2.2. Nhạc tính trong thể loại thơ lục bát của Huy Cận1T …………………………………………………………. 112
1T3.3. Phong cách thơ Huy Cận qua ngữ pháp thơ Lửa thiêng1T ………………………………………………………… 115
1T3.4. Ảnh hưởng của Lửa thiêng qua “một thời đại thi ca”1T …………………………………………………………… 120
1T3.5. Tiểu kết chương 31T ………………………………………………………………………………………………………….. 123
1TKẾT LUẬN1T ………………………………………………………………………………………………………. 125
1TKIẾN NGHỊ VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO1T ………………………………………. 130
1TDANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC CƠNG BỐ1T ……………….. 131
1T ÀI LIỆU THAM KHẢO1T ………………………………………………………………………………….. 132
1TPHẦN PHỤ LỤC1T ………………………………………………………………………………………………. 144
DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu thơ Huy Cận tức là nghiên cứu một trong những gương mặt thơ lớn
của thời đại, một trong những nhà văn hĩa cĩ đĩng gĩp đáng kể cho sự nghiệp văn học, văn
hĩa dân tộc Việt Nam thế kỷ XX.
Trên thi đàn Việt Nam vào những năm 1930-1945, từ phong trào Thơ mới đã xuất
hiện những tài năng thơ, trong đĩ cĩ Huy Cận, Xuân Diệu… Nhà phê bình văn học Hồi
Thanh qua quyển Thi nhân Việt Nam đã nhận xét bước đầu về phong cách của các nhà thơ
trẻ: “Tơi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ cĩ một thời đại phong phú
như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở
như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thơng, trong sáng như
Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan
Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.” [128, tr. 37]
Dấu ấn phong cách thơ Huy Cận đã bắt đầu từ tập Lửa thiêng (ra đời năm 1940). Âm
hưởng của tập thơ đã lan tỏa “một thời đại trong thi ca” (*tên tiểu luận của nhà phê bình
Hồi Thanh, đăng trong Thi nhân Việt Nam) từ giữa thế kỷ XX đến nay.
Ngày nay, từ thế kỷ XXI, với cái nhìn mới, rộng mở chúng ta càng cĩ cơ hội nghiên
cứu thấu đáo hơn phong cách thơ đặc sắc của Huy Cận trong giai đoạn sáng tác trước Cách
Mạng Tháng Tám (đặc biệt, nghiên cứu dày cơng về tập Lửa thiêng).
1.2. Xã hội Việt Nam đang đổi mới, chuyển biến, hội nhập thế giới. Hoạt động văn
hĩa nĩi chung đang được rộng mở. Các hoạt động lý luận, phê bình văn học nghệ thuật mới
của thế giới cũng được chúng ta nghiên cứu, gạn lọc, tiếp thu trên tinh thần “học xưa vì nay”,
“học ngồi vì trong”. Trong đĩ, cĩ thể kể đến sự gạn lọc, tiếp thu, vận dụng ở lĩnh vực
nghiên cứu văn học.
Vì vậy, vấn đề nghiên cứu phong cách thơ Huy Cận trên cơ sở lý luận tổng hợp mới cĩ
ý nghĩa cấp thiết trong việc gĩp phần phục vụ sự nghiệp đổi mới, phát triển văn hĩa, khoa
học, giáo dục nước nhà.
Từ lịng ngưỡng mộ, yêu quý thơ ca Huy Cận, đặc biệt là tập thơ Lửa thiêng (với
những câu thơ từ lâu ám ảnh sâu sắc trong tâm thức người viết: Một chiếc linh hồn nhỏ:
Mang mang thiên cổ sầu); thêm nữa, từ những vấn đề thú vị đặt ra ở trên trong bối cảnh mới,
đã tạo động lực cho người viết suy nghĩ, xác định và chọn lựa đề tài nghiên cứu Phong cách
nghệ thuật thơ Huy Cận qua Lửa thiêng.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng một số đặc điểm lý luận văn học phương Đơng truyền thống và lý
luận văn học phương Tây hiện đại quen thuộc, luận án cụ thể hĩa cơng việc tìm hiểu, khám
phá thêm một số khía cạnh thi pháp thơ, ngơn ngữ thơ đầy tính sáng tạo độc đáo của nhà thơ
Huy Cận. Và, cũng nhằm làm nổi bật vấn đề nghiên cứu phong cách nghệ thuật đặc sắc của
nhà thơ trong quá trình từ khi tập thơ ra đời, luận án tìm hiểu những ảnh hưởng và âm hưởng
của Lửa thiêng trong thời đại, so sánh đơi nét biểu hiện giống, khác nhau giữa thơ Huy Cận
và thơ Xuân Diệu với một số nhà thơ cùng thời hoặc xuất hiện ở giai đoạn sau khơng lâu.
3. Lịch sử vấn đề
Tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận ra mắt bạn đọc vào tháng 11, năm 1940 (nhà xuất
bản Đời Nay của nhĩm Tự Lực Văn Đồn in ấn và phát hành, khoảng 3.000 cuốn). Tập thơ
do họa sĩ Tơ Ngọc Vân trình bày bìa với lời đề tựa của Xuân Diệu. Nhìn lại chặng đường dài
70 năm từ lúc Lửa thiêng ra đời đến nay, qua khảo sát nhiều bài viết về tập thơ, người viết
nhận thấy Xuân Diệu cĩ thể được xếp là người đầu tiên cĩ bài nhận xét, đánh giá, giới thiệu
thơ Huy Cận với cơng chúng một cách bao quát và sớm nhất.
Xuân Diệu cảm nhận tinh tế Lửa thiêng – “nỗi thê thiết của ngàn đời”, “lớp sầu dưới
đáy hồn nhân thế”. Lửa thiêng mang “hồn xưa” xơn xao, đượm “một tấm lịng thương yêu
khơng biết cĩ tự đời nào, và đoạn thảm, hồi vui cùng nhuốm một màu vĩnh viễn”. Là bạn tri
kỷ, tri âm của Huy Cận, ngay từ buổi đầu Lửa thiêng ra đời, ơng đã “nghe”, đã “cảm” được
“cảm giác khơng gian” và “cái sầu của vũ trụ” của Huy Cận: “…ta nghe xa vắng quanh
mình; ta đứng trên thiên văn đài của linh hồn, nhìn cõi bát ngát; một cái buồn vời vợi dàn ra
cho đến hư vơ…”
Sau Xuân Diệu, hai nhà phê bình văn học Hồi Thanh- Hồi Chân cĩ bài nhận xét
Lửa thiêng: “…Huy Cận cĩ lẽ đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng người luơn lắng
nghe mình sống để ghi lấy cái nhịp nhàng lặng lẽ của thế giới bên trong…”, “Người đã gọi
dậy cái hồn buồn của Đơng Á, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm
ngầm trong cõi đất này”. Hai nhà phê bình cũng cho rằng hồn thơ Huy Cận “trong cuộc viễn
du đã cĩ lần nhác thấy cái xa thẳm của thời gian và khơng gian…”, với “con đường về quá
khứ đi càng xa, càng cơ tịch, tứ bề càng vắng lặng, mênh mơng…” [128, tr. 164-165]
Tâm trạng này, chính Chế Lan Viên qua một tứ thơ tương tự cũng đã bộc bạch một cách
đau đáu về sự cơ đơn trên nẻo đường riêng của thơ ơng:
Đường về thu trước xa lắm lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tơi.
Theo dõi những diễn biến thơ ca trên thi đàn lúc bấy giờ, Lương An viết trên báo Tràng
An, số 12, tháng 3 năm 1941, tỏ ra khá ưu ái khi nhận xét Lửa thiêng:
“Tập thơ Lửa thiêng là một tập thơ rất đáng chú ý về tình cảm cũng như về văn pháp.
Khơng cần so sánh cũng đủ nhận thấy đĩ là một tập thơ hay và tác giả là một thi nhân cĩ đặc
tài. Trong cuộc xây đắp thi giới nước nhà, một tập thơ như thế là tất cả sự gắng cơng, và cĩ
lẽ là một cơng trình văn nghệ đáng chú ý nữa.
Lửa thiêng ra đời, được hoan nghênh nhiệt liệt, cái đĩ khơng phải nghi ngờ gì nữa.
Nhưng phần thưởng đích đáng nhất cho Huy Cận là tác phẩm của chàng sẽ được sống lâu.”
Trái với sự ngợi ca của nhiều người dành cho thơ Huy Cận, nhà phê bình Vũ Ngọc
Phan trong Nhà văn hiện đại đánh giá Lửa thiêng cĩ phần khe khắt hơn. Ơng nhận xét thơ tả
cảnh của Huy Cận vẫn cịn mang nét chung “cái cảm giác của lồi người từ thiên cổ mà thi
nhân bao lần ca ngợi”, “…Huy Cận nghệ sĩ ở chỗ đĩ và cũng thiếu cái đặc sắc của nhà thơ ở
chỗ đĩ: ơng đã khơng đem cái tâm hồn của riêng ơng để hịa cùng vũ trụ…” Vũ Ngọc Phan
cũng cho rằng thơ tả tình của Huy Cận khơng cĩ những câu “nồng nàn, tha thiết, nĩng nảy
như thơ Xuân Diệu”, “khơng nhớ nhung, đắm đuối như thơ Lưu Trọng Lư”. Lời tình tự của
Huy Cận “rất đẹp, rất êm đềm, nhưng thật khơng phải những lời tha thiết tự tâm can…”
[101, tr. 417-419]
Trong những thập niên 60, 70, và đặc biệt vào giữa đến cuối thập niên 80 của thế kỷ
XX, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam bắt đầu cĩ những cơng trình nghiên cứu mới
dành cho trào lưu văn học lãng mạn 1930-1945. Phong trào Thơ mới với tác phẩm của
những nhà thơ tên tuổi như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thơng, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn
Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Tế Hanh… được phân tích, đánh giá cởi mở hơn.
Ngồi những bài viết hoặc tiểu luận nghiên cứu về Huy Cận của Nguyễn Xuân Nam,
Nguyễn Hồnh Khung, Nguyễn Đăng Mạnh, Mã Giang Lân…, một số chuyên luận của các
tác giả Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Lê Đình Kỵ… nghiên cứu sâu về Thơ mới đều đề cập và
phân tích tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận.
Lửa thiêng khơng tách khỏi quỹ đạo chung của thơ ca lãng mạn giai đoạn này nhưng
vẫn cĩ những điểm riêng qua cảm nhận thời đại và quan niệm thẩm mỹ của Huy Cận. Nhà
nghiên cứu Phan Cự Đệ nhận xét: “Quan điểm thẩm mỹ của các nhà thơ mới cĩ nhiều điểm
gặp gỡ với quan điểm nghệ thuật của các nhà văn lãng mạn phương Tây thế kỷ XIX. Nĩi
chung đĩ là quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Và, tuy quan điểm mỹ học của các nhà
lãng mạn ở nước ta thực ra cũng chẳng cĩ gì mới so với các nhà lãng mạn phương Tây
nhưng nĩ vẫn cĩ những nét riêng, mới, lạ của thơ ca lãng mạn Việt Nam giai đoạn này. Nét
riêng này được thể hiện từ quan niệm thẩm mỹ của thơ Thế Lữ với cái tơi nghệ sĩ là “cây đàn
muơn điệu”; Xuân Diệu với quan niệm thẩm mỹ hồn thơ là “những khúc nhạc thơm”, “khúc
nhạc hường”; Huy Thơng đi tìm giấc mộng anh hùng trong lịch sử; Lưu Trọng Lư “hướng
cái nhìn vào một thế giới mơ màng”; cịn “chàng Huy Cận ngày xưa hay sầu lắm”, lại đi vào
vũ trụ trăng sao…” [25, tr. 53]
Khảo sát phong trào Thơ mới như hệ quy chiếu từ thực tại xã hội đến quan niệm sáng
tác, nhà nghiên cứu Hà Minh Đức nêu lên một số nội dung, một số đề tài được tìm thấy trong
thơ mới: “cái tơi” cơ đơn; tình yêu mộng tưởng; cảnh đẹp của thiên nhiên, sơng núi, làng
quê; tình yêu quê hương, đất nước… Và, bĩc tách ra lớp vỏ bên ngồi của thơ ca lãng mạn,
Hà Minh Đức nhận định cái “mạch ngầm” ý nghĩa trong Thơ mới: “Thơ mới chứa đựng
nhiều nỗi niềm, niềm vui gắn bĩ với từng cuộc đời đến những nỗi buồn riêng thấm thía cơ
đơn và đau khổ. Trào lưu thi ca này như một tâm hồn trĩu nặng ưu tư và xao động trong tình
cảm buồn vui, xĩt xa. Những tình cảm này gắn liền với từng cuộc đời thơ, nhưng cũng mang
theo hơi thở chung của thời đại. Đĩ là tiếng nĩi, tâm tình của các tầng lớp tiểu tư sản thành
thị trước một thực tại khơng như mình mong muốn. Chế độ thực dân phong kiến ngày càng
xiết chặt xiềng gơng lên số phận mỗi con người.” [32, tr. 665-669]
“Cái tơi” vốn bé nhỏ và bị gị bĩ trong cuộc sống hằng ngày, nên luơn cảm thấy thiếu
một tầm vĩc, thiếu một tiềm lực. Các nhà thơ mới Huy Cận, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Tế
Hanh… ít nhiều đều cĩ những tứ thơ nĩi lên sự khát khao được giải phĩng khỏi sự ngột ngạt,
bế tắc của xã hội. Cái tơi trong thơ mới là cái tơi bộc lộ, cái tơi cảm xúc đang mở hết các giác
quan để nhận biết thế giới xung quanh. Vũ trụ bao la, trời cao, biển rộng vẫn là những đối
tượng mà cảm hứng thi ca muốn vươn tới để hịa nhập. Phải chăng vì thế, nĩi riêng trong
Lửa thiêng, Huy Cận đã tìm đến vũ trụ bao la để tạo ra sự cảm hĩa, để giải tỏa tâm tình, bộc
lộ “cái tơi” riêng biệt của thi nhân?
Phân tích riêng thơ Huy Cận với ý nghĩa “ngọn Lửa thiêng trong đời và trong thơ”, Hà
Minh Đức mơ tả khá rõ nét cuộc hành trình tâm tư của một nhà thơ trong tình yêu, nỗi sầu
đời lẫn yêu đời, những khát vọng vũ trụ thanh cao. Và, Hà Minh Đức giải thích nỗi buồn
trong thơ Huy Cận: “Thơ Huy Cận buồn, căn bệnh tinh thần của một thế hệ khơng dễ đổi
thay; nhưng nỗi buồn của Lửa thiêng khơng mang nhiều tính riêng tư, khơng gắn với dục
vọng, đam mê để rồi chán chường, tuyệt vọng. Vẫn cĩ một mạch tình cảm trong trẻo, thiết
tha gắn bĩ ân cần với cuộc sống và nĩi như cách nĩi của tác giả sau này, đĩ là tâm trạng
“yêu đời nên đau đời”.”
Viết về “Thơ mới – những bước thăng trầm”, nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ cũng dành
khơng ít trang cho phần phân tích tập Lửa thiêng của Huy Cận. Về cái nền chung, Thơ mới
nằm trong thời kỳ văn học lãng mạn 1930-1945 bộc lộ sự đổi mới về mặt thi pháp và tư duy
thơ một cách tất yếu. Cụ thể qua sáng tác thơ ca, “những đổi mới ấy đã bộc lộ qua tư duy
bằng liên tưởng, bằng ấn tượng, cảm giác, bằng âm thanh, nhịp điệu, biến cái trừu tượng
thành cụ thể, nối dài cái cụ thể bằng cái trừu tượng, nội tâm hĩa ngoại giới, ngoại giới hĩa
nội tâm… do ảnh hưởng trực tiếp của tư duy thơ thời hiện đại…” [62, tr. 458-461]
Trong chuyên luận mang tính lý luận, phê bình này, Lê Đình Kỵ nhận xét “cái màu
riêng của hồn thơ Huy Cận là sự “đơn chiếc”, “cơ độc” cho đến “chăn chiếu cũng mục cũng
nở màu vĩnh viễn”. Huy Cận nĩi đến thời gian “vạn kỷ”, “vĩnh viễn” tưởng như khơng phải
là nỗi niềm riêng tư của một ai đĩ, mà chính cuộc sống xã hội bấy giờ đã biến thiên như vậy.
Với sự hiểu biết uyên bác về thơ ca của một nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học,
Lê Đình Kỵ nêu ý kiến M. Gorky nhận xét thơ Verlaine như một cách so sánh sâu sắc
“trường hợp Lửa thiêng” của Huy Cận. Đĩ là: “những bài thơ luơn luơn buồn bã và thấm
thía một nỗi phiền muộn sâu xa của thi sĩ, ta nghe rất rõ tiếng kêu gào của sự thất vọng, nỗi
đau đớn của một tâm hồn tinh tế và dịu dàng, tâm hồn đĩ luơn khao khát ánh sáng, khao khát
trong sạch, đi tìm Thượng đế nhưng khơng thấy, muốn yêu thương con người nhưng khơng
thể được.” [62, tr. 468]
Cùng trong thập niên 60, 70, ở Sài Gịn, khơng kể những quan điểm xuyên tạc “nhà thơ
tiền chiến” của một vài tác giả vùng văn học đơ thị tạm chiếm, phần nhiều, các tác phẩm như
Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ hay Đi vào cõi thơ của Bùi
Giáng, Dư vang nghệ thuật của Trần Nhựt Tân… đã luận bàn, phân tích nhiều vấn đề liên
quan đến tập Lửa thiêng của Huy Cận.
Viết về hồn thơ Huy Cận qua Lửa thiêng, Phạm Thế Ngũ nêu một số nhận xét tương
đối bao quát những vấn đề cốt lõi trong thơ Huy Cận: tình yêu thiên nhiên, sự mơ mộng
trong tình yêu, nỗi buồn, tính suy tưởng về cuộc đời… Phạm Thế Ngũ nhận xét thơ Huy Cận
chất chứa nhiều “tình yêu mãnh liệt nhưng hay giấu”; cùng đem thiên nhiên vào thơ nhưng ở
thơ Xuân Diệu “thiên nhiên thường sực nức hương vị tình yêu và ngơn ngữ ái tình”, cịn Huy
Cận thích nĩi đến “núi sơng, cây cỏ bình thản, lặng lẽ, hàm súc, như tâm hồn tác giả”. Phạm
Thế Ngũ nhận định thơ Huy Cận “hay sầu rồi trốn về đường thơ triết, ngẫm nghĩ về sự tẻ
nhạt của cuộc đời và suy tưởng về cái chết…”. Điểm đáng chú ý ở đây, Phạm Thế Ngũ nhận
xét nỗi buồn của Huy Cận là sự phản ứng của thời đại: “…Thơ Huy Cận đào sâu cái buồn
mênh mang ấy đã gĩp phần bổ túc cho một đề tài muơn thuở, làm phong phú thơ mới, ở một
giai đoạn chuyên về đạo tình. Song ta cĩ thể nĩi, qua năm 1938, ở xã hội Việt Nam, cái vui
vẻ trẻ trung người ta, kể cả thanh niên uống đã tới chỗ cạn đắng. cái buồn của Huy Cận đây
phải chăng là một phản ứng của thời đại. Người ta nghĩ đến những lời rầu rĩ, bâng khuâng
của Á Nam và Tản Đà. Chiếc linh hồn nhỏ là tác giả Lửa thiêng, phải chăng như một cánh
chim đầu đàn tiên cảm cơn bão tố sắp tới” [99, tr. 575-579]
Cĩ thể nĩi, những năm này, khơng khí “triết học hiện đại”, “triết học hiện sinh”… nĩi
chung được giới thiệu tương đối rộng rãi ở các trường đại học vùng đơ thị tạm chiếm. Đĩ là
điều dễ hiểu khi một số lý thuyết, triết học của Kant, Bergson, Nietzsche, Heidegger,
Husserl, Sartre, Merleau Ponty…, ít nhiều đã được Trần Nhựt Tân vận dụng vào việc nghiên
cứu thơ ca theo cách tiếp nhận “đa hệ” của ơng. Qua các chương trong tiểu luận Dư vang
nghệ thuật [126], ơng phân tích quan niệm: “thơ là cái Đẹp”; “mơ về cái Đẹp”; “vũ trụ thi
ảnh”; “âm điệu, nhạc tính trong thơ” v.v… Đáng chú ý, trong việc chọn lựa một số tác phẩm
thơ ca làm đối tượng nghiên cứu, Trần Nhựt Tân đã đề cập và trích chọn khá nhiều câu thơ
trong tập Lửa thiêng của Huy Cận. Lửa thiêng được coi như một tác phẩm thơ ca Việt Nam
tiêu biểu nhất, bao trùm được những vấn đề nhà nghiên cứu đã phân tích, gửi gắm.
Riêng, trường hợp Bùi Giáng đối với Huy Cận cũng là một “hiện tượng văn học” khá
đặc biệt. Nhà thơ Bùi Giáng tự nhận ơng chịu ảnh hưởng hồn thơ Huy Cận từ năm 16 tuổi
khi học trung học ở Huế. Cách đánh giá của Bùi Giáng về thơ ca nĩi chung thường thiên về
trực cảm, cĩ phần “lập dị” nhưng luơn để lộ kiến thức thật uyên bác về văn học Đơng, Tây
kim cổ. Ơng say mê đọc thơ, thuộc thơ và bộc lộ cảm nhận thơ Huy Cận theo suy nghĩ rất
riêng, đầy cảm hứng mênh mang, sâu sắc, mạnh mẽ. Chẳng hạn, với sự thụ cảm, suy luận về
thơ Huy Cận, Bùi Giáng “tuyên bố” quả quyết “…Tình yêu và lữ thứ, lữ thứ và khơng gian,
đĩ là những gì quyết định hết nguồn thơ Lửa thiêng” [34]
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, sự đổi mới nhiều
mặt của đời sống kinh tế, xã hội Việt Nam đã tác động đến tình hình văn chương, học thuật
Việt Nam đương đại. Sự vận dụng phương pháp nghiên cứu văn học dựa vào thi pháp học,
ngơn ngữ học, phân tâm học… được tìm thấy qua nhiều bài viết và cơng trình nghiên cứu
phong phú cĩ liên quan đến Thơ mới nĩi chung, hay cĩ “chạm” ít nhiều đến thơ Huy Cận nĩi
riêng. Đội ngũ các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ này, khơng phân biệt thế hệ tuổi tác, cĩ
thể kể tên: Đỗ Đức Hiểu, Trần Đình Sử, Mã Giang Lân, Trần Khánh Thành, Lý Hồi Thu,
Lý Tồn Thắng, Đỗ Lai Thúy, Lê Tiến Dũng, Ngơ Văn Phú, Vũ Quần Phương, Trần Mạnh
Hảo, Nguyễn Đăng Điệp, Vu Gia, Chu Văn Sơn, Trần Huyền Sâm, Bùi Quang Tuyến, Trần
Thiện Khanh, Lê Thị Anh v.v…
Tham khảo chuyên luận Thi pháp thơ Huy Cận, người viết tìm thấy cơng trình nghiên
cứu cơng phu của Trần Khánh Thành về thơ Huy Cận (cơng trình nghiên cứu này bao quát
những tác phẩm từ tập Lửa thiêng đến những tập thơ sáng tác sau Cách Mạng Tháng Tám).
Dưới gĩc độ thi pháp học, ơng phân tích quan niệm nghệ thuật, khơng gian nghệ thuật, thời
gian nghệ thuật, các phương thức biểu hiện và cái tơi trữ tình với nhiều đối cực trong thơ
Huy Cận. Nhận định Huy Cận khơng tách rời hình tượng con người cơ đơn với nỗi buồn sầu,
tình yêu mộng mơ… qua Lửa thiêng, Trần Khánh Thành mơ tả và chứng minh “cái tơi trữ
tình hài hịa luơn vận động giữa nhiều đối cực xuyên suốt, so sánh với giai đoạn sáng tác thơ
của Huy Cận sau này”… Đĩ là sự thể hiện “niềm khát vọng của nhà thơ là tìm đến cái đẹp
hài hịa giữa cuộc đời và vũ trụ, giữa cuộc đời riêng và cuộc đời chung, giữa cảm hứng lãng
mạn và cảm hứng hiện thực, giữa cảm xúc tươi tắn và tầm cao trí tuệ…” [132, tr. 56-57]
Người nghiên cứu sâu về tiến trình thơ ca Việt Nam hiện đại, ngồi những chuyên đề về
các nhà thơ, gần đây nhất, nhà nghiên cứu Mã Giang Lân đã trở lại chuyên đề Cấu trúc câu
thơ Lửa thiêng của Huy Cận, đăng trên Tạp chí Văn Học. Qua bài viết, Mã Giang Lân bộc lộ
rõ sự chú trọng của ơng về ngơn ngữ nghệ thuật thơ. Với hướng phân tích này, ơng đã phát
hiện thêm một số chi tiết nghệ thuật mới mẻ của câu thơ Lửa thiêng và gĩp thêm một vệt
nghiên cứu mới về thơ Huy Cận. [66]
Ngồi ra, người viết cịn ghi nhận nhiều thơng tin từ mảng bài nghiên cứu, đánh giá
cuộc đời, sự nghiệp hay hồi ức và kỷ niệm về Huy Cận – một nhà thơ, nhà văn hĩa lớn của
Việt Nam, sau khi ơng qua đời (19-2-2005). Đĩ là những bài báo, bài nghiên cứu đăng tải
trên các báo in, báo điện tử: Nhân Dân, Sài Gịn Giải Phĩng, Văn Nghệ, tạp chí Hồn Việt,
Sơng Hương, Hà Tĩnh, Bình Định… của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ: Phan Cự Đệ,
Hà Minh Đức, Mai Quốc Liên, Hữu Thỉnh, Giang Nam, Trần Phương Trà, Nguyễn Trọng
Tạo, Mai Hồng, Trần Đăng Khoa, Trần Mạnh Hảo, Lê Thị Hồng Minh, Ngơ Văn Phú,
Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Sỹ Đại, Vương Trí Nhàn, Lê Minh Quốc, Nguyễn Thanh
Mừng…
Mặt khác, người viết cũng tìm hiểu, chọn lọc, tham khảo một số bài viết về thơ Huy
Cận của các nhà nghiên cứu Việt Nam ở hải ngoại như Đặng Tiến, Thụy Khuê… Thực tế
cho thấy các bài viết này khá chú trọng đến tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận (nhất là Đặng
Tiến với chuyên đề Huy Cận trong tơi). Nhìn chung, những bài viết của các tác giả ở hải
ngoại ít nhiều đều vận dụng lý thuyết thi pháp cấu trúc luận của Roman Jakobson; điều đĩ
cho thấy “dấu vết” nghiên cứu ngữ học bao trùm ảnh hưởng một thời trong giới nghiên cứu
văn học ở phương Tây.
Phần nghiên cứu giới thiệu thơ Huy Cận trong văn chương Việt Nam ở mảng tiếng
Pháp cĩ tập “Marées de la Mer Orientale” (Nước triều Đơng), Orphée La Différence xuất
bản năm 1994 với lời giới thiệu của nhà Việt Nam học nổi tiếng, Paul Schneider (Pháp).
Ngồi phần mở đầu nhận xét chung về thơ ca Việt Nam, Paul Schneider đã giới thiệu phần
viết riêng về thơ Huy Cận. Nước triều Đơng gồm nhiều bài thơ trong những chặng đường
sáng tác của Huy Cận, trong đĩ cĩ phần trích dịch các bài thơ từ tập Lửa thiêng: Ngậm ngùi
(Mélancolie), Đi giữa đường thơm (La route parfumée), Thu rừng (Automne dans la forêt),
Tình tự (Confidence d’amante), Áo trắng (La robe blanche), Gánh xiếc (Le cirque), Tràng
giang (Fleuve immense). Đặc biệt, lời nhận xét khái quát thơ Huy Cận trong văn học Việt
Nam, Paul Schneider đã nêu lên một khía cạnh tương đồng giữa Nguyễn Trãi và Huy Cận:
hai nhà thơ đều sáng tác thơ ca trước khi hoạt động kháng chiến. Nguyễn Trãi từng ở Cơn
Sơn trong thời gian ngắn trước khi đi theo cuộc kháng chiến của Lê Lợi. Ơng đã cĩ bài thơ
hay Quy Cơn Sơn trùng cửu ngẫu tác. Bài thơ biểu hiện sự gặp gỡ giữa con người thơ ca và
con người dấn thân, yêu nước. Huy Cận cũng bộc lộ hai khía cạnh thơ ca và hoạt động cách
mạng: tập thơ đầu tay Lửa thiêng của ơng đã gặt hái thành cơng vào năm 1940; sau đĩ, ơng
đã tham gia phong trào Việt Minh… [190, tr. 7-10]
Về bản tiếng Anh, quyển “Vietnamese Literature” (Văn chương Việt Nam), Red River,
Nhà xuất bản Ngoại văn xuất bản năm 1979, do Nguyễn Khắc Viện và Hữu Ngọc chủ biên ._.
cùng đội ngũ dịch thuật: Mary Cowan, Carolyn Swetland, Đặng Thế Bính, Paddy Parrington,
Elizabeth Hodgkin, đã giới thiệu khái quát lịch sử văn chương Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế
kỷ XX. Trong phần dịch sang bản tiếng Anh, tập Lửa thiêng (Sacred Fire) được giới thiệu
hai bài: Nhạc sầu (Music for the dead) và Tràng giang (Vast river).
Tĩm lại, về lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ Huy Cận qua tập Lửa thiêng cĩ thể tính đến
hàng trăm bài báo và nhiều chuyên luận dưới nhiều gĩc độ nghiên cứu khác nhau theo thời
gian và bối cảnh khơng gian khác nhau. Nhưng, tựu trung, những vấn đề về cảm hứng thời
đại, cảm hứng cơ đơn của con người với nỗi sầu vũ trụ, nỗi buồn thế kỷ, tình yêu thiên nhiên,
tình yêu quê hương, đất nước, yêu tiếng nĩi của dân tộc, những suy tư về cuộc đời… của
Huy Cận, được các tác giả nhận định, phân tích, bàn luận tương đối cĩ nhiều điểm gặp gỡ,
trùng hợp. Riêng về vấn đề phong cách thơ Huy Cận cĩ đặt ra trong một số bài viết của
Nguyễn Xuân Nam, Nguyễn Văn Long, Hà Minh Đức, Trần Khánh Thành, Mã Giang
Lân…, nhưng phần lớn, các tác giả chỉ nêu một cách khái quát hoặc nhận xét rải rác những
khía cạnh chung khi khảo sát thơ Huy Cận qua nhiều thời kỳ sáng tác; hoặc cĩ cơng trình chỉ
đề cập vài nét phong cách thơ Huy Cận, chủ yếu qua những tác phẩm đươc nhà thơ sáng tác
từ những năm 1960 trở về sau…
Cho nên, xét trên gĩc độ nghiên cứu tổng hợp mới, tương thích cho việc tìm hiểu
phong cách thơ Huy Cận nổi bật qua tập thơ Lửa thiêng, người viết nhận thấy vẫn chưa cĩ
tác giả nào đề cập chuyên biệt. Tuy vậy, xuất phát từ sự gợi mở của một số cơng trình nghiên
cứu đi trước này, đã tạo tiền đề quý báu, giúp người viết suy nghĩ sâu hơn việc nghiên cứu
phong cách thơ Huy Cận. Đĩ là việc nghiên cứu phong cách thơ với cách nhìn tồn diện
hơn trên cơ sở tìm hiểu tư tưởng, triết học, tâm lý học sáng tạo, tư duy nghệ thuật và
ngơn ngữ nghệ thuật thơ ơng. Với hướng nghiên cứu tổng hợp mới, khi chọn lọc, tiếp thu
các phương pháp nghiên cứu văn học từ truyền thống đến hiện đại, người viết mong tìm
thêm một cách tiếp cận mới, hỗ trợ cách lý giải đề tài, nhằm mang lại hiệu quả thích ứng,
phù hợp vấn đề nghiên cứu.
Những cố gắng thực hiện đề tài luận án, ngồi niềm say mê của người viết về thơ ca
Huy Cận, cịn là ước vọng mong muốn đĩng gĩp thêm một vài ý nghĩa hữu ích cho việc
nghiên cứu, cảm thụ, thưởng thức văn chương một cách đa dạng, đa chiều kích trong đời
sống văn học hiện nay.
4. Nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án khơng chứng minh lại kết luận của các cơng trình nghiên cứu trước về phong
cách thơ Huy Cận đang tham khảo. Dựa trên cách thức tổng hợp mới các phương pháp
nghiên cứu về tác giả, tác phẩm, nhiệm vụ luận án lần lượt trình bày trong ba chương, nhằm
chứng minh phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận qua Lửa thiêng. (Và, phong cách đĩ vẫn là
cơ sở cho chặng đường sáng tác sau này của nhà thơ).
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận án chủ yếu nghiên cứu thơ Huy Cận, đồng thời so sánh với thơ Xuân Diệu cùng
một số nhà thơ khác của phong trào Thơ mới.
5. Phạm vi khảo sát
Luận án dựa vào thơ Huy Cận (tập Lửa thiêng), thơ Xuân Diệu (tập Thơ thơ, Gửi
hương cho giĩ) và thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Tố Hữu, Nguyễn Xuân Sanh, Chế Lan Viên,
Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh, cùng một số nhà thơ khác sáng tác trong
giai đoạn Thơ mới 1930-1945…; đối chiếu khi cần thiết (nhưng cĩ giới hạn) thơ ca của vài
tác giả thuộc nhĩm Sáng Tạo.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đi tìm phương pháp nghiên cứu trong rừng lý thuyết mênh mơng, người viết cũng cần
nĩi rõ: chỉ tham khảo, vận dụng vài lý thuyết nghiên cứu, nhằm làm sáng tỏ thêm đề tài luận
án, dưới gĩc độ nghiên cứu lịch sử văn học, hơn là đi sâu vào lý luận văn học.
Tuy nhiên, một điều hiển nhiên và khách quan cho thấy: sự vận động khơng ngừng của
ngơn ngữ văn học, của các lý thuyết văn học trong đời sống hiện nay vẫn đang diễn biến và
luơn chịu sự tương tác qua lại của xã hội. Nhà nghiên cứu Trịnh Bá Đĩnh đã nhận định trong
lời giới thiệu cơng trình dịch Chủ nghĩa cấu trúc và văn học [28] và gần đây nhất là bài đăng
báo Văn Nghệ Về khuynh hướng duy ngữ trong văn học hiện nay đều phân tích những diễn
biến văn học trên bình diện lý thuyết. Trịnh Bá Đĩnh phân định: “…hiện nay xu hướng phê
bình ngữ học hầu như đang chiếm ưu thế, nhất là trong khu vực phê bình học viện.” Ơng mơ
tả tiến trình của xu hướng được mệnh danh “chủ nghĩa đế quốc ngơn ngữ học”, thế nhưng,
xem ra tình hình của xu hướng này ở phương Tây vào cuối thế kỷ XX đã và đang “lắng
đọng”! Điều đĩ cho thấy quy luật vận động của tư duy văn học khơng bao giờ đứng yên. Ở
đoạn kết bài viết, Trịnh Bá Đĩnh nhận định sâu sắc vấn đề: “văn học là một hiện tượng rất
phức tạp, một hiện tượng mang tính tổng hợp văn hĩa rất cao, một bộ phận khơng thể tách
rời khỏi văn hĩa thời đại. Làm nên nĩ khơng chỉ cĩ những thành phần của riêng nĩ như cách
tự sự, cách cấu tạo, mà cịn cĩ những thành phần khác của văn hĩa như tâm lý thời đại, hệ tư
tưởng, các nghệ thuật khác. Mà mỗi thời đại lại khơng tách rời khỏi tồn bộ truyền thống văn
hĩa quá khứ (trong mỗi thành tố nhỏ nhất của văn học cần nghe được tiếng vọng nhiều thế
kỷ đã qua) và cả những mơ ước, dự phĩng về tương lai. Văn học phải là sự tổng hợp của mỹ
học của lời nĩi và mỹ học của cái được nĩi tới. Khơng phải ngẫu nhiên mà văn học ngay từ
khởi thủy cho đến ngày nay vẫn kiên nhẫn kể về tình dục và quyền lực, về cái thiện, cái ác
đích thực và giả trang… Điều đĩ cĩ nghĩa là văn học của chúng ta vẫn rất cần phải tiếp tục
kể về những điều trơng thấy mà đau đớn lịng, về tình yêu, số phận con người.” [29]
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân qua bài Gĩp phần tìm hiểu phương pháp cấu trúc
[19] cho thấy ý nghĩa “gạn lọc”, tìm cách vận dụng ưu điểm của lý thuyết. Xuất phát từ gĩc
độ ngơn ngữ học- lý luận văn học, ơng phân tích những hạn chế của chủ nghĩa cấu trúc và
hậu cấu trúc (hay cịn gọi giải cấu trúc). Đại thể: chủ nghĩa cấu trúc khơng chú trọng đến chủ
thể sáng tác; quan niệm cực đoan chỉ tập trung phân tích cái cấu trúc khép kín của văn bản
tác phẩm… Nhưng đồng thời, ơng cũng cho rằng “việc phân tích cấu trúc của tác phẩm văn
học là hồn tồn cần thiết và cĩ ích. Nếu gạt bỏ những điều bất hợp lý trong phương pháp
luận của chủ nghĩa cấu trúc và hậu cấu trúc thì chúng ta vẫn cĩ thể vận dụng, phát huy được
những thao tác hữu ích trong nghiên cứu văn học.”
Một mặt, tìm hiểu tình hình thực tế của hoạt động lý luận phê bình duy ngữ ở phương
Tây hiện nay như thế nào là một cách tiếp cận cập nhật của người viết. Cĩ lẽ, cũng khơng
phải là điều ngạc nhiên khi giới nghiên cứu đã bắt gặp những quan niệm “khá phản tỉnh” của
các nhà lý luận văn học nổi tiếng như Antoine Compagnon qua quyển Le Démon de la
théorie- Con quỷ của lý thuyết (Lê Hồng Sâm dịch là Bản mệnh của lý thuyết), Tzvetan
Todorov qua quyển La Littérature en péril (Nền văn chương đang lâm nguy). Đĩ là những
vấn đề “thời sự văn học” được giới nghiên cứu phương Tây quan tâm. Trường hợp tự phản
biện và hồi nghi lý thuyết nghiên cứu văn học cấu trúc luận do chính mình giới thiệu và lập
nên hệ thống, Todorov đã trình bày mối quan ngại về tình hình tiếp cận và nghiên cứu văn
chương hiện tại ở Pháp, nhất là trong phạm vi giảng dạy văn học ở nhà trường. Sau quá trình
“trải nghiệm” và “kiểm nghiệm”, ơng nhận xét lối phân tích cấu trúc mang lại sự mới mẻ cho
văn học nhưng chỉ nên xem là phương tiện hơn là cứu cánh. Todorov cho rằng nếu chỉ dùng
một phương pháp thơi, chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa của tác phẩm một cách sai lầm. Ơng
cũng nhấn mạnh ý nghĩa giữa tác phẩm văn học và bối cảnh luơn cĩ mối quan hệ liên quan,
đối thoại. [159]
Lược thuật sơ nét diễn biến tình hình hoạt động gần đây nhất của các lý thuyết nghiên
cứu văn học ở phương Tây, người viết nhằm rút ra kinh nghiệm quý báu: khơng sa đà vào
một lý thuyết nghiên cứu nào một cách cực đoan. “Gạn đục, khơi trong” các lý thuyết được
coi như là phương châm vận dụng nghiên cứu của luận án. Chính vì vậy, về phương pháp
người viết lựa chọn phương pháp nghiên cứu hợp lý, dung hịa, tổng hợp mới, tìm hiểu
các mối liên quan đến sáng tác và cuộc đời tác giả, trên cơ sở thống kê, hệ thống, so
sánh và đi sâu vào phân tích văn bản tác phẩm thơ ca. Đĩ là việc chọn lựa một số
phương pháp thích hợp như phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích theo thi pháp học,
phong cách học, khảo sát, thống kê, so sánh… Về lý thuyết, luận án tham khảo, vận dụng
một số ý kiến bàn luận văn chương trong di sản văn học Việt Nam; tham khảo lý luận văn
học trong Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp; tham khảo lý thuyết tưởng tượng, hình thành thi
ảnh của nhà triết học kiêm phê bình văn học Pháp, Gaston Bachelard; tham khảo các phương
thức cơ bản của thi pháp học- chủ nghĩa cấu trúc của Roman Jakobson, cấu trúc văn bản
nghệ thuật của IU. M. Lotman…
7. Những đĩng gĩp mới của luận án
7.1 Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận qua việc tổng hợp mới, luận án nhằm:
(1) gĩp thêm vài ý kiến chứng minh phong cách thơ độc đáo qua ngơn ngữ thơ và thi ảnh
mang tính văn chương – văn hĩa – triết học của Huy Cận; (2) gĩp thêm một hướng tiếp cận
mới về nghiên cứu thơ ơng trong dịng chảy của đời sống văn học, văn hĩa, xã hội đương
đại; (3) bổ sung tư liệu qua một số văn bản thơ, đối chiếu những tư liệu bản thảo ban đầu
trong tập Lửa thiêng đã được nhà thơ sử dụng qua thao tác chọn lựa hoặc kết hợp trong quá
trình sáng tác, đầy ý nghĩa thể hiện tình cảm yêu tiếng Việt của nhà thơ.
7.2 Ý nghĩa thực tiễn
Qua nghiên cứu phong cách thơ Huy Cận, luận án mong muốn bổ sung thêm tư liệu cho
việc nghiên cứu, giảng dạy thơ Huy Cận ở nhà trường và việc cảm thụ văn chương đa chiều
kích trong đời sống văn học hiện nay..
8. Cấu trúc luận án
Ngồi phần dẫn luận, phần kết luận và phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những nhân tố hình thành phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận
Chương 2: Phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận thể hiện qua vũ trụ thơ Lửa thiêng
Chương 3: Phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận thể hiện qua ngơn ngữ thơ Lửa thiêng
Chương 1 NHỮNG NHÂN TỐ HÌNH THÀNH PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THƠ
HUY CẬN
1.1. Khái niệm “phong cách”
Khái niệm phong cách Le style, c’ est l’ homme (văn chính là người) theo một bài
nghiên cứu của Phan Huy Đường đã trích từ bài diễn văn của Buffon bàn về văn phong thế
kỷ XVIII của Pháp. Buffon quan niệm phong cách là sự biểu hiện hồn mỹ vào tác phẩm cái
nhân cách, tư tưởng, tình cảm của chủ thể sáng tạo. [169]
Theo quan niệm của Hégel, phong cách bao hàm tính chất độc đáo và cả tính võ đốn
mang ý nghĩa cảm hứng chủ quan của nghệ sĩ. Khái niệm phong cách được ơng khái quát là
phương thức biểu hiện, hay cĩ khi là quy luật nghệ thuật của một loại hình nghệ thuật nào đĩ
như phong cách thơ, phong cách nhạc kịch. [42, tập 1, tr. 472-473]
Phong cách được hiểu rộng rãi dành cho mọi sáng tác về tư tưởng như khoa học, triết
học, lịch sử. Đại thi hào Đức, Goethe, khi bàn đến khái niệm phong cách cũng cho rằng đĩ là
sự thống nhất chủ quan và khách quan trong sáng tác, khi nhà văn vừa vượt lên trên mọi sự
mơ phỏng đối với tự nhiên vừa vượt lên trên cái tác phong, kiểu cách chủ quan của chính
người sáng tác. Ý kiến của Nguyễn Khắc Sính khi viết về phong cách đã liên hệ về trường
hợp chính Marx cũng sử dụng khái niệm phong cách- style để đánh giá tác phẩm kinh tế học
của Proudhon. Tư tưởng này được Diderot, Flaubert (Pháp), Rauli (Anh) tán thành… [119]
Vào những năm đầu thế kỷ XX, Roland Barthes, nhà ngơn ngữ học- phê bình văn học
Pháp, một trong những người đại diện lỗi lạc của chủ nghĩa cấu trúc, khơng dùng khái niệm
style khi bàn luận những vấn đề liên quan phong cách. Ơng sử dụng khái niệm écriture- lối
viết và cho rằng phong cách nhà văn này khác nhà văn kia chính nhờ lối viết. Cách gọi
écriture là lối viết riêng của mỗi nhà văn được Barthes diễn giải trong cơng trình Độ khơng
của lối viết. Ơng cho rằng lối viết là cái trung gian giữa ngơn ngữ và văn phong. “…Văn
phong là niềm đơn độc khép kín của nhà văn: một cách nĩi, một từ vựng nảy sinh từ cá thể
và quá khứ của anh ta là chiều thẳng đứng cắm vào huyền thoại riêng biệt và bí ẩn của tác
giả”. [28, 54]
Cũng trong cuốn Độ khơng của lối viết, Barthes phân biệt trong một tác phẩm văn
chương: “ngơn ngữ” chung cho tất cả các nhà văn và “lối viết” do sự suy nghĩ của nhà văn
khi sử dụng hình thức mà họ chọn…” [88, tập 2, tr. 57]
Tuy vậy, đồng thời với R. Barthes, nhà bác ngữ học Đức, Léo Spitzer định nghĩa văn
phong là style. Ơng cho rằng mỗi khơng khí văn hĩa sản sinh ra một văn phong khác nhau.
Một ý kiến khác của J. Derrida được tìm thấy trong quyển “Các khái niệm và thuật ngữ
các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX” . J. Derrida, người đại
diện khuynh hướng giải cấu trúc luận, đã sử dụng khái niệm thuật ngữ écriture “là ngọn
nguồn, khởi đầu của ngơn ngữ, tuyệt nhiên khơng phải là cái tiếng nĩi đã chuyển tải ngơn từ
nĩi ra”. Ơng phê phán những vấn đề cịn bất cập của chủ nghĩa cấu trúc và ký hiệu học.
[54,19]
Thực tế, theo cách hiểu thơng thường, người ta cho rằng style – phong cách – ngồi
ngơn ngữ cịn bao hàm cá tính độc đáo và quan niệm sáng tác của nghệ sĩ trong cách thức
diễn đạt; cịn écriture – lối viết, thường chú trọng về ngơn ngữ.
Phong cách theo nghĩa rộng nhất là lối sống, cách sống, kiểu sống của một con người, là
sự phản ảnh của nhân cách của một con người thể hiện thành hành vi, ứng xử của người đĩ
đối với người khác, đối với cộng đồng. Phong cách là nét riêng của nhân cách, do cá tính con
người quy định. Mỗi con người là một cá nhân của một cộng đồng, mỗi cá nhân là một thực
thể duy nhất, độc nhất, khơng cĩ bản thứ hai, khơng cĩ sự lặp lại…
Một con người ra đi, khơng thể nào gặp lại
Một vũ trụ riêng tư khơng lặp lại bao giờ
(E. Evtusenko)
Tĩm lại, thuật ngữ hay khái niệm phong cách được hiểu và sử dụng một cách quen
thuộc nhất, rộng rãi và vẫn sử dụng cho đến hiện nay, được chọn từ khái niệm style của
Buffon.
1.1.1.Phong cách theo quan niệm lý luận văn học phương Tây
Nĩi đến vấn đề lý luận văn học phương Tây, chủ yếu người viết tham khảo một bộ phận
lý luận văn học Liên Xơ tương đối được đề cập nhiều trong thời gian trước đây và vài khía
cạnh lý thuyết văn học của châu Âu quen thuộc trong thế kỷ XX.
Những năm 60, 70 của thế kỷ XX, khảo sát nhiều định nghĩa khác nhau của các nhà
nghiên cứu ngơn ngữ học, lý luận văn học, nghệ thuật học, nhà lý luận văn học Liên Xơ
Khrápchenkơ trong quyển Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học đã
trình bày khá cơng phu của nhiều người định nghĩa tiêu biểu về phong cách. [83]
Chẳng hạn, theo Đ. Likhachev, phong cách là sự kết hợp trong bản thân nĩ sự thụ cảm
chung về hiện thực vốn cĩ ở nhà văn và phương pháp nghệ thuật được quy định bởi những
nhiệm vụ mà nhà văn đặt ra cho mình. Với ý nghĩa đĩ, khái niệm phong cách cĩ thể được áp
dụng vào những loại nghệ thuật khác nhau và giữa chúng cĩ thể cĩ những sự tương ứng
đồng đại. Hoặc, theo Ar. Grigorian: Phong cách nghệ thuật khơng thể vơ can với phương
pháp, với thế giới quan, với bút pháp, với cá nhân nhà nghệ sĩ, với cách hiểu của nghệ sĩ về
thời đại, với vẻ đặc thù dân tộc trong sáng tác của anh ta… Phong cách là sự thống nhất cao
nhất tất cả những phạm trù đĩ. Ya. Elxberg phát triển ý phong cách với tư cách là hình thức
mang tính nội dung. Phong cách biểu hiện sự tồn vẹn của hình thức cĩ tính nội dung. Phong
cách – đĩ là sự thống trị của hình thức nghệ thuật, là sức mạnh của tổ chức của nĩ… Ngồi
ra, cịn nhiều ý kiến khác về phong cách tương đối cĩ sự bổ sung qua lại của các nhà lý luận
văn học như V. Turbin, B. Tơmashevski. V. Jirmunxky, Xtêpanơp, Pacpêlop, V. Kơvalev, L.
Nơvichenkơ, V. Đneprov, A. Xơcơlơv…
Sau khi mơ tả một cách khái quát, Khrápchenkơ cĩ cách cắt nghĩa riêng và nhấn mạnh
tính cá biệt trong sáng tác nghệ thuật thể hiện ở phong cách. Ơng cho rằng phong cách là
cách thể hiện nét độc đáo của sự sáng tạo văn học, là tồn bộ sự cảm thụ cuộc sống của nhà
văn, quan điểm của nhà văn về thế giới. Nhân cách, cá tính của nhà văn được thể hiện trong
tác phẩm văn học rất đa dạng. Mỗi sự biến đổi trong phương pháp sáng tác, trong cảm thụ,
đều dẫn đến sự thay đổi phong cách. Phong cách là khả năng thể hiện sự chiếm lĩnh cuộc
sống bằng hình tượng, khả năng chinh phục bạn đọc của nhà văn, phong cách thực hiện vai
trị trong sự hình thành cấu trúc bên trong của các hiện tượng văn học. Phong cách cá nhân
của nhà văn là hạt nhân của quá trình văn học. Phong cách thể hiện trong ngữ điệu, giọng
điệu, cảm hứng sáng tạo, tính độc đáo trong sự miêu tả nhân vật, sự kiện, hồn cảnh, thể hiện
trong cấu trúc tác phẩm, trong kết cấu, trong ngơn ngữ, trong thể loại, trong trường phái.
Bàn về phong cách chẳng bao giờ dứt theo thời gian với nhiều lý thuyết của các nhà lý
luận, phê bình và cả giới sáng tác văn học! Đơi khi, khái niệm này được hiểu khá đơn giản.
Chẳng hạn, ở những năm đầu thế kỷ XXI, Louise Gluck, một gương mặt thơ nữ người Mỹ
trong một bài viết giới thiệu Những bài thơ hay nhất nước Mỹ chỉ nhấn mạnh ý: giọng điệu
là yếu tố thể hiện rõ nét nhất làm nên trong phong cách. Louise Gluck nêu: “Thơ là giọng,
phong cách của tư tưởng”; và, bà cắt nghĩa: “…văn chương, một từ khủng khiếp. Nĩ thiếu
hồn tồn cảm giác về sự sống quyết liệt của giọng. Như một sự trừu tượng hĩa, nĩ biến bài
thơ thành cái gì đĩ hồn lìa khỏi xác, một điều đã giải quyết xong, trơ ì và xa cách. Trong khi
đĩ giọng cất lên từ trang giấy lại năng động diệu kỳ: nĩ quyến rũ, địi hỏi, cay đắng, thơng
tuệ. Nĩ khơng cất lên từ quá khứ mà ngay hiện tại… Thật thú vị khi biết được đơi điều về
phẩm chất ấy, bởi vì bài thơ, bất kể nội dung nĩi gì, nĩ sống sĩt khơng nhờ nội dung mà nhờ
giọng. Khi nĩi giọng, tơi muốn chỉ cái phong cách (style)…” [175]
1.1.2. Phong cách theo quan niệm lý luận văn học phương Đơng
Thuật ngữ phong cách trong lý luận văn học phương Đơng quen thuộc vẫn hay dùng
Văn như kỳ nhân (Văn tức là người). Nhưng, cĩ thể đây chỉ là cách dịch từ thuật ngữ phương
Tây Le style, c’ est l’homme?
Ở Trung Quốc, cách thời đại chúng ta gần 1.500 năm, Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu
long đã cĩ hai chương bàn luận rộng rãi những vấn đề liên quan đến sáng tác văn chương và
tác giả: trong 49 chương trình bày lý luận cơ bản về sáng tác, phê bình, phần thứ 3 bao gồm
24 chương cuối, tác giả bàn về phong cốt, tình thái…
Lưu Hiệp cho rằng, tình cảm xúc động hình thành ngơn từ, đem diễn đạt ra, sẽ thành
văn chương… Do đĩ, tình và chí sẽ xác định ngơn từ, những tác phẩm anh hoa ra đời khơng
cái nào tách rời khỏi tính cách, tình cảm của tác giả.
“Văn cần cĩ cốt cũng như thân thể cần cĩ bộ xương. Tình cảm con người mang sẵn cái
phong cũng giống như thân hình mang sẵn cái sinh khí. Tạo lời văn đoan trang chính trực thì
văn cốt hình thành. Ý chí và khí chất mạnh mẽ trong sáng thì văn phong thanh tân (khí chất ở
đây người đọc cĩ thể hiểu như bút lực của nhà văn, nhà thơ)… Phong cốt tác dụng cho văn
chương cũng giống như chim bay phải dùng đến đơi cánh vậy.
Phong cách của tác phẩm thay đổi theo cá tính của tác giả. Cá tính khác nhau thì phong
cách cũng khác nhau. Mà cá tính của nhà văn là bao gồm đủ cả các mặt: tài năng, khí chất,
học vấn, tập quán… Chúng chủ yếu là do hậu thiên (hình thành do rèn luyện trong cuộc
sống, trái với tiên thiên là do di truyền phú bẩm) tùy theo sự thay đổi của hiện thực mà thay
đổi. Phong cách của tác phẩm thể hiện cá tính, đương nhiên cũng thay đổi, cũng phát triển.
Điều đĩ hồn tồn phù hợp với thực tế khách quan.
Tĩm tắt quan niệm của Lưu Hiệp trong hai chương này, cho thấy thể tính bao gồm: thể
là hình trạng, là bản thân tác phẩm văn chương; tính là tính cách của tác giả. Phong cốt được
hiểu với tình, khí song đơi, từ, thể phối hợp. Văn sáng, khí mạnh, ngọc quý người cầu. Dựng
thêm phong cốt, tạo thành phong lực tài hoa nổi bật, rực rỡ đẹp sao! Phong cốt tức phong
thái và cốt cách của văn chương. [44, 338]
Sức lan tỏa của lý luận văn học của Lưu Hiệp rất lớn theo thời gian. Phạm trù văn học
phong cốt đã nhiều lần được các nhà ngữ văn học Trung Quốc hết sức chú ý. Hồng Khản
(học trị của Chương Thái Diễm- một nhà cải cách chính trị và là một học giả nổi tiếng Trung
Quốc đầu thế kỷ XX) đã ráp cái khái niệm phong và cốt vào các khái niệm hình thức và nội
dung. Ơng cho rằng: “Phong là tư tưởng của văn, cịn cốt là ngơn từ của văn”.
Theo cách nhận định của nhiều nhà nghiên cứu thời đại sau này đã “gạn lọc” nhiều vấn
đề lý luận văn học của Lưu Hiệp về hình tượng riêng lẻ, các thủ pháp nghệ thuật, những chỗ
gợi nhắc, liên tưởng, là những cái cố kết với nhau thành một khối trong ý đồ tác giả… Ví dụ,
họ nhắc lại ý kiến Lưu Hiệp khi cho rằng cái cốt vẫn cĩ thể là chết nếu thiếu ngơn từ. Và,
ngược lại, ngơn từ cũng chỉ nhờ cốt mới cĩ thể trở thành tác phẩm văn học được. [55, 124-
134]
Thật thú vị, ngày nay, khuynh hướng xem các phạm trù hình thức và nội dung như các
hiện tượng nhiều cấp được nhìn nhận là lẽ đương nhiên, trong đĩ cĩ vấn đề phong cốt, thể
tính. Vấn đề này cĩ sự gặp gỡ với lý luận văn học phương Tây quen thuộc về ý nghĩa khái
niệm phong cách. Điều đĩ chứng tỏ Lưu Hiệp đã đi trước thời đại của ơng.
1.1.3. Phong cách theo quan niệm lý luận văn học Việt Nam
Trong văn chương Việt Nam cổ khơng cĩ những khái niệm hay thuật ngữ về lý luận văn
học một cách rõ ràng về phong cách. Tuy nhiên, sách bàn về thơ, “sách nĩi chuyện làm thơ”,
dưới tên gọi “thi thoại”, đã được Nguyễn Dữ đề cập từ thế kỷ XVI qua Kim Hoa thi thoại ký,
một trong những truyện hư cấu trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục. Cuộc nĩi chuyện thơ giả
tưởng giữa ba nhà thơ đương thời Ngơ Chi Lan, Phù Thúc Hồnh, Thái Thuận, mang dáng
dấp bàn về “phong cách các nhà thơ”, tưởng như thật hoang đường nhưng khá thực tế trong
lịch sử văn học: “…Thơ của ơng Chuyết Am kỳ lạ mà tiêu tao; thơ ơng Vu Liêu mạnh mẽ
mà khích động; thơ ơng Tùng Xuyên như chàng trai xơng trận, cĩ vẻ sấn sổ; thơ ơng Cúc
Pha như cơ gái chơi xuân, cĩ vẻ mềm yếu. Đến như ơng Đỗ ở Kim Hoa, ơng Trần ở Ngọc
Tái, ơng Đàm ở Ơng Mặc, ơng Vũ ở Đường An, khơng phải khơng ngang dọc tung hồnh;
nhưng cầu lấy lời chín lẽ đạt, khiến cho làng phong nhã phải phục thì chỉ duy những bài đầy
lời trung ái của ơng Nguyễn Ức Trai, lịng lúc nào cũng chẳng quên vua, cĩ thể chen vào
mơn hộ của Đỗ Thiếu Lăng được. Cịn đến giọng thơ biến hĩa được khĩi mây, lời thơ quan
hệ đến phong giáo, thì lão phu đây cũng chẳng chịu kém thua mấy”. [22, 219]
Khi viết thể lệ biên soạn Tồn Việt thi tập, Lê Quý Đơn cĩ nhận xét sở trường riêng của
mỗi tác giả như các yếu tố liên quan đến phong cách thơ: “Văn chương của mỗi nhà đều cĩ
thể cách riêng. Nĩi về việc theo hầu nơi đài các thì ơn hịa, nhuần nhị và phong phú; nĩi về
việc đĩng quân, đồn thú thì lạnh lùng, hùng tráng. Miêu tả thời tiết, cảnh vật quý ở chỗ thanh
cao, đẹp đẽ; miêu tả núi rừng, ẩn dật quý ở chỗ nhàn nhã, phĩng khống. Tỏ bày ý chí cần
phải trang trọng: viếng cổ cần phải cảm khái; tặng nhau nên mềm mỏng, lưu luyến. Ý tứ lập
trước, từ điệu theo sau, đem loại thơ này dùng cho các loại thơ khác mà khơng được, thế mới
là tinh xảo, sít sao.” [141, tập 1, 87] Nguyễn Đức Đạt luận bàn về văn chương trong Nam
Sơn tùng thoại cũng nêu ý tương tự: “Văn như con người của nĩ. Văn thâm hậu thì con
người của nĩ trầm mà tĩnh; văn ơn nhu thì con người của nĩ khiêm mà hịa; văn cao khiết thì
con người của nĩ đạm mà giản; văn hùng hồn thì con người của nĩ thuần túy mà đúng đắn”
[141, tập 1, 276]. Hoặc, trong bài viết cuối Tập thơ Rừng Chuối, Cao Bá Quát cho rằng:
“Thơ khơng cĩ phẩm chất nhất định, phẩm chất của người là phẩm chất của thơ. Phẩm chất
của người cao thì phẩm chất của thơ cao…” Cao Bá Quát nhận xét ý nghĩa này khơng khác
với ý nghĩa “văn chính là người” của Buffon. Nhưng lời nhận định ở đây cĩ dạng “định lý
đảo” khi ơng cho rằng “xem người thì cĩ thể biết được thơ”. [141, tập 1, 246]
Nghiên cứu những vấn đề lý luận văn học qua nhiều thời đại, thuật ngữ phong cách
được nhà lý luận văn học Phương Lựu cắt nghĩa trong Từ điển Văn học, tập 2 như sau:
“Phong cách là chỗ độc đáo mang phẩm chất thẩm mỹ cao được kết tinh trong sự sáng tạo
của nhà văn… Phong cách cĩ thể biểu hiện ở cảm hứng, thể loại, ngơn ngữ nghệ thuật…
Phong cách liên quan cả về tư tưởng và nghệ thuật… Phong cách bắt nguồn sâu xa từ hiện
thực khách quan, bằng thực tiễn sống của nhà văn, nhà thơ…” [158]
Giải thích cặn kẽ hơn, Phương Lựu bổ sung: “… mỗi nhà văn cĩ một nét riêng, nhưng
chỉ cĩ những cái riêng nào hay, sắc, sâu, tinh… thì mới đáng gọi là phong cách… Tất nhiên,
cái hay, cái sắc, cái sâu, cái tinh trong từng phong cách là khác nhau. Phong cách dứt khốt
phải muơn màu, muơn vẻ…”[75, tập 1, 63]. Phương Lựu cũng phân tích sự khác nhau giữa
phong cách và phương pháp sáng tác. Phương pháp sáng tác là hệ thống hữu cơ những
nguyên tắc tư tưởng – nghệ thuật được xác định bởi một thế giới quan nhất định trong những
điều kiện phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Khi thế giới quan thay đổi, chỉ cĩ những nét
phong cách nào khơng phù hợp, sẽ chuyển đổi; cái cịn lại sẽ tiếp tục tồn tại. Chính vì thế,
hai nhà văn khác nhau về thế giới quan và phương pháp sáng tác vẫn cĩ thể giống nhau cĩ
mức độ ở phong cách.
Ngồi ra, qua nhiều cách lý giải của những nhà nghiên cứu văn học, nhà văn Việt Nam
hiện đại, phong cách được cắt nghĩa qua những gĩc độ cảm nhận khác nhau như sau.
Ở gĩc độ nghiên cứu loại thể, Bùi Cơng Hùng trong Tìm hiểu nghệ thuật thơ ca [49]
cũng cho rằng phong cách là kết quả của trình độ nghệ thuật cao, cĩ dấu ấn tác động đến thời
đại, người đọc, mở ra một cách viết, một cách thể hiện mới, được mọi người thừa nhận. Phần
lớn các nhà văn, nhà thơ khi sáng tạo đều thể hiện cá tính sáng tạo, ra sức đi tìm cái mới, thể
hiện cái khơng lặp lại bên cạnh cái lặp lại cĩ tính kế thừa truyền thống. Tuy nhiên, chỉ khi
nào nhà văn, nhà thơ đĩ đạt trình độ nghệ thuật cao trong nghệ thuật, mở ra được một cách
nhìn mới, cách nghĩ mới, cách cảm thụ mới, được mọi người thừa nhận, người đĩ mới thực
sự cĩ phong cách, được chấp nhận là cĩ phong cách.
Bàn luận về phong cách, nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân cũng nêu: “Phong
cách là những nét chung, tương đối bền vững của hệ thống hình tượng, của các phương thức
biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản sắc sáng tạo của một nhà văn, một tác phẩm, một
khuynh hướng văn học, một nền văn học nào đĩ”. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc, từng viết
riêng một quyển sách Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, cắt nghĩa: “Phong
cách là một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch
sử và chứa đựng một giá trị lịch sử, cĩ thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một thể loại
hay một tác giả”. Nhà nghiên cứu lý luận, phê bình văn học, Đỗ Lai Thúy, chọn kiểu phân
tích phân tâm học trong văn học (như kiểu Bút pháp của ham muốn) cũng nêu phong cách là
cá tính chủ thể sáng tạo và sự tự do lựa chọn các phương thức ngơn ngữ để thể hiện nĩ trong
tác phẩm. Ơng nhấn mạnh đến cá tính và cho rằng cái chút riêng biệt nhỏ nhoi ấy là tất cả…
Nguyễn Đăng Mạnh cũng cho rằng phong cách là một phạm trù thẩm mỹ. Nhà văn phải cĩ
tài năng thật sự, sáng tạo ra những tác phẩm cĩ nghệ thuật cao mới được xem là nhà văn cĩ
phong cách. Nhà văn cĩ phong cách sẽ tạo ra cho mình một thế giới nghệ thuật riêng…, cĩ
nhỡn quan về thế giới, cĩ tư tưởng nghệ thuật (idée poétique) riêng của nhà văn… [80, tr. 8,
9]
Nĩi về kinh nghiệm sáng tác liên quan đến phong cách, nhà văn Nguyễn Tuân nêu:
“Văn học cĩ cái rất vui là phong cách. Cách nĩi, cách viết khác nhau…Mỗi người viết cĩ
một cái vision (nhỡn quan) riêng. Nĩ đẻ ra phong cách. Do thế mà anh thì thích tả giĩ, tả
nắng, anh thì thích tả mây, tả mưa… anh thì cĩ sở trường này, sở trường nọ. Rồi cách đưa
vấn đề nhiều vấn đề cũng khác nhau…” [155, 715].
Nhìn chung, từ quan niệm phong cách của phương Tây, phương Đơng đến quan niệm
phong cách của Việt Nam, đều cho thấy luơn cĩ mối liên quan qua lại giữa tác giả – tác
phẩm và ngược lại. Mối quan hệ qua lại và thống nhất giữa phong cách và phương pháp
sáng tác, bút pháp, thi pháp… ít nhiều đều được các nhà lý luận nêu lên; trong đĩ, phong
cách vẫn cĩ ý nghĩa bao trùm. Nhà văn, nhà thơ thể hiện, mơ tả cuộc sống, bộc lộ tình cảm,
suy nghĩ của mình, của nhân vật… qua bút pháp đã chọn lựa (tả thực, tượng trưng, ước
lệ…); điều đĩ gĩp phần tạo nên phong cách tác giả, phong cách tác phẩm. Bút pháp được
chọn sử dụng trong quá trình sáng tác, cĩ thể thay đổi cho phù hợp tâm trạng tác giả hay đối
tượng sáng tác nhưng phong cách vẫn khơng mất đi.
1.1.4. Phong cách theo cách hiểu và lựa chọn của người viết luận án:
Như vậy, khái quát lại nhiều quan niệm về phong cách, người viết luận án đã bắt gặp
khá nhiều điểm tương đồng về nhiều mặt, khơng tách rời giữa nội dung, hình thức, bên cạnh
sự khác biệt khơng lớn lắm giữa các ý kiến phương Đơng và phương Tây.
Trên những cơ sở này, người viết chọn lựa một cách hợp lý các ý kiến để lý giải phong
cách. Đĩ là: (1) tổng hợp cách hiểu phong cách của một nhà văn, nhà thơ trên hai xu hướng
nghiên cứu lý luận văn học phương Đơng và phương Tây; (2) định nghĩa phong cách theo
Khrápchenkơ gần như tổng hợp được những điểm chung của các quan niệm về phong cách,
về cả hai phương diện: tác giả và tác phẩm; (3) phong cách thể hiện trong giọng điệu, cảm
hứng sáng tạo, tính độc đáo trong sự miêu tả nhân vật, sự kiện, hồn cảnh, thể hiện trong cấu
trúc tác phẩm… (4) Tìm hiểu phong cách thơ, luận án cịn dựa vào lý thuyết thi ảnh của
Gaston Bachelard; lý thuyết ngơn ngữ thơ của Roman Jakobson. (Mặc dù, theo quan niệm
của chủ nghĩa cấu trúc, Jakobson khơng chú ý đến chủ thể tác giả, nhưng trong thực tế sáng
tác, nhà vă._.94), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo
dục, HN
130. Nguyễn Bá Thành (1999), Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng, Nxb Giáo dục,
HN
131. Trần Khánh Thành sưu tầm, giới thiệu (1999), Huy Cận, Đời và thơ, Nxb Văn học, Hà
Nội,
132. Trần Khánh Thành (2002), Thi pháp thơ Huy Cận, Nxb Văn học, HN
133. Trần Khánh Thành, Lê Dục Tú (2003), Huy Cận, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục,
HN
134. Lý Tồn Thắng (2007), “Âm điệu trong thơ Hàn Mặc Tử”, Tạp chí Văn Học (6)
135. Đồn Thêm (1962), Quan niệm và sáng tác thơ- theo lời thi nhân và học giả phương
Tây (trích dịch), Viện Đại học Huế xuất bản
136. Nguyễn Ngọc Thiện biên soạn với sự cộng tác của Cao Kim Lan (2001), Tranh luận
văn nghệ thế kỷ XX, tập 1, Nxb Lao động, HN
137. Hồng Trung Thơng (1982) “Xuân Diệu-từ nhà thơ lãng mạn chủ nghĩa đến nhà thơ
hiện thực xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Văn Học (2), tr. 14-21
138. Hồng Trung Thơng (1983) “Những trang thơ, trang đời, trang nghệ thuật” Tạp chí Văn
Học (1), tr. 20-33
139. Lưu Khánh Thơ sưu tầm, giới thiệu (2005), Xuân Diệu, tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo
dục, HN
140. Lê Thương (1970), “Thời tiền chiến trong Tân nhạc (1938-1946)”, Tuyển tập nhạc, Kẻ
Sĩ xuất bản, SG
141. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn (2007), 10 thế kỷ bàn luận
về văn chương, tập 1,2,3 Nxb Giáo dục, HN
142. Đỗ Lai Thúy (1992), Con mắt thơ, Nxb Lao động, HN
143. Đỗ Lai Thúy (giới thiệu) (2004), Sự đỏng đảnh của phương pháp, Nxb Văn hĩa Thơng
tin, HN
144. Lộc Phương Thủy (chủ biên) (2007), Lý luận phê bình văn học thế giới thế kỷ XX, tập 1,
2, Nxb Giáo dục, HN
145. Lộc Phương Thủy (2005), Quan niệm văn chương Pháp thế kỷ XX, Nxb Văn học, HN
146. Đặng Tiến (2009), Thơ Thi pháp và chân dung, Nxb Phụ nữ, HN
147. Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và Thơ
Mới, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TPHCM
148. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mỹ và văn hĩa, Nxb Giáo dục, HN
149. Đinh Gia Trinh (2005), Hồi vọng của lý trí, Nxb Hội Nhà văn, HN
150. Hồng Trinh (1983) “Thơ và hình thức thơ”, Tạp chí Văn Học (1), tr. 34-45.
151. Nguyễn Văn Trung (1963) Lược khảo văn học tập 1, Nxb Nam Sơn, SG
152. Nguyễn Văn Trung (1965) Lược khảo văn học tập 2, Nxb Nam Sơn, SG
153. Nguyễn Văn Trung (1970) Lược khảo văn học tập 3, Nxb Nam Sơn, SG
154. Phạm Quang Trung (1999), Thơ trong con mắt ngày xưa, Nxb Hội Nhà văn, HN
155. Nguyễn Tuân (1999), Bàn về văn học nghệ thuật, Nxb Hội Nhà văn, HN
156. Xuân Tùng (1999), Xuân Diệu như chính ơng, Nxb Văn hĩa Thơng tin, HN
157. Nguyễn Văn Tuyên (1995) “Những ngày đầu tân nhạc” – Số đặc biệt nửa thế kỷ tân
nhạc Việt Nam, Hợp Lưu (22) 4&5, CA, Hoa Kỳ
158. Từ điển Văn học tập 2, (1984) Nxb Khoa học Xã hội, HN tr. 214, 215
159. Tzvetan Todorov (2007), “Nền văn chương đang lâm nguy” (Trần Huyền Sâm dịch),
Tạp chí Sơng Hương, (10)
160. Nguyễn Thị Kim Ửng (2006), “Thu rừng, một cấu trúc khơng gian lạ trong thơ Huy
Cận”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Sư phạm TP. HCM, (9),
tr. 104-110
161. Viktor. V. Vingradov (1982), Phong cách học – Lý thuyết về lời nĩi cĩ tính chất thơ thi
học (tài liệu dịch đánh máy, lưu hành nội bộ), Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội
162. Cù Huy Hà Vũ (2005), “Trái đơi Xuân Diệu, Huy Cận với Tự Lực Văn Đồn”, Tạp chí
Hồn Việt (tập 5), tr. 47-61
163. Xavier Darcos (1997), Lịch sử văn học Pháp (Phan Quang Định dịch), Nxb Văn hĩa
Thơng tin, HN
VI/ Web
164. Huy Cận (2005) Suy ngẫm về nghệ thuật, Sắc màu văn hĩa, VDC Media,
165. Nguyễn Văn Dân, Gĩp phần tìm hiểu phương pháp cấu trúc nguồn:
1T
&shname=Gop-phan-tim-hieu-phuong-phap-cau-truc1T
166. D. Diễm (2005) “Đưa tiễn “Lửa thiêng” về trời”, báo Vietnamnet, nguồn:
167. Trần Thanh Đạm (2010), “Nhà văn- Văn bản- Tác phẩm- Người đọc (Mấy vấn đề lý
luận văn học hiện đại)”, báo Văn Nghệ số 18, 19 ; trang web tạp chí Hồn Việt đăng lại
(22-3):
1T
pham-Nguoi-doc.aspx1T
168. Nguyễn Đức Đàn (2008) Các hệ tư tưởng và mơi trường văn hĩa xã hội, nguồn:
1T he tu
tuong va moi truong van hoa xa hoi/2.viePortal1T
169. Phan Huy Đường (2009), Văn khơng là người, nguồn: Georges-Louis Leclerc, comte
de Buffon / Discours sur le style / Paris, J.Lecoffre 1872
170. Frederick Turner (2009) Spring evening (Chiều xuân), Nguyễn Tiến Văn dịch;
nguồn: 1T
171. Trần Thanh Giao (2009), Cảm hứng vũ trụ trong thơ Nguyễn Trãi ,
nguồn:1T
mid=181T
172. Khế Iêm (2004), Thơ Tân hình thức và nhà phê bình, nguồn:
173. Nguyễn Vy Khanh (2004), Về thơ hơm nay, nguồn:
174. Thụy Khuê nguồn: Thụy Khuê, Sĩng từ trường 2, Chim Việt Cành Nam
1T
175. Louise Gluck (2004), Thơ là giọng, là phong cách của tư tưởng (Hồng Hưng dịch),
nguồn: 1T
176. Nhiều người viết – Bốn cuộc thảo luận của nhĩm Sáng Tạo, nguồn:
1T
177. Trần Trung Sáng (2009), “Tế Hanh: Với sân ga thời thơ ấu”, nguồn báo Đà Nẵng điện
tử :
1T
178. Phạm Xuân Thạch (2006), Giáo dục Pháp- Việt- nhân tố then chốt trong quá trình hiện
đại hĩa văn học Việt Nam (tham luận Hội thảo quốc tế “Văn học Việt Nam trong bối
cảnh giao lưu văn hĩa khu vực và quốc tế”, Viện Văn học phối hợp Harvard-Yenching
Institute (Hoa Kỳ) tổ chức tại Hà Nội)
nguồn: 1T
179. Phạm Xuân Thạch (2010), Ba thập niên đầu thế kỷ XX và sự hình thành trường văn học
ở Việt Nam, nguồn: trang web tạp chí Văn Hĩa Nghệ An
1T
dau-the-ky-xx-va-su-hinh-thanh-truong-van-hoc-o-viet-nam.html1T
180. Trần Khánh Thành (2005) “Cù Huy Cận- Người suốt đời gắn bĩ với cách mạng và thơ”,
100 năm Đại học Quốc gia Hà Nội, nguồn:
1T
181. Thơ Tân Hình Thức ,
nguồn:
182. Đào Thị Diễm Trang (2009), Đơng Hồ và Tagore, nguồn:
183. Nguyễn Ngọc Tuấn (2005), “Mỗi kỳ một bài thơ: Nắng chia nửa bãi chiều rồi” , Tạp
chí Việt 2, nguồn:
1TU
VII/ Tiếng Anh
184. Gaston Bachelard (1994), The poetics of space, translated from the French by Maria
Jolas, with a new foreword by John R. Stilgoe, Beacon Press, Boston.
185. John Lye (1993) Contemporary Literary Theory (essay was published in Brock eview
Volume 2, Number 1)
186. Philip Rice and Patricia Waugh (1998), Modern literary theory, A Reader third Edition,
Arnold, A member of the Hodder Headline Group, London
187. Roman Jakobson (1937), “Six Lectures on Sound and Meaning” (preface by Claude
Levi-Strauss) soure: Lectures on sound and Meaning, Publ. MIT Press, Cambridge
188. Terry Eagleton (1986) What is Literature?, Basil Blackwell Ltd, Oxford
189. Nguyễn Khắc Viện and Hữu Ngọc (1979), Vietnamese Literature, Red River, Foreign
Languages Pubshing House, Ha Noi
VIII/ Tiếng Pháp:
190. Cù Huy Cận (1994), Marées de la Orientale, Traduit du vietnamien et présente par
Paul Schneider, Orphée/ La Différence
191. Les auteurs (1985), Les plus belles pages de la Poésie Francaise, préface de Jeanne
Bourin, Sélection du Reader’s Digest, Paris, Bruxelles, Montreal, Zurich
192. Paul Verlaine Choix de poésies (1934), préface de Francois Coppée (de l’ Académie
francaise), Bibliothèque- Charpentier, Paris
PHẦN PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: Ảnh chân dung nhà thơ HUY CẬN năm 1940
PHỤ LỤC 2: Bìa tập thơ LỬA THIÊNG của HUY CẬN, xuất bản năm 1940
PHỤ LỤC 3: Ảnh tư liệu các bản thảo nháp ban đầu trong tập LỬA THIÊNG
(do nhà thơ HUY CẬN chép tay tặng GS-TS MAI QUỐC LIÊN )
PHỤ LỤC 4: Phân tích hai bài thơ: BUỒN ĐÊM MƯA và NHẠC SẦU
UPHỤ LỤC
PHÂN TÍCH HAI BÀI THƠ
BUỒN ĐÊM MƯA VÀ NHẠC SẦU
Khác với ngơn ngữ hàng ngày, bài thơ là một thực thể sống. “Bài thơ khơng chết đi
sau khi đã sống” (Le Poème ne meurt pas pour avoir vécu- Paul Valéry). Điều này, cả
Nguyễn Văn Trung trong Lược khảo văn học và Trần Mai Châu trong Thơ, nhận định và
thưởng thức đều nhắc đến. Paul Valéry cho rằng khi người ta hiểu hết bài thơ thì nĩ đã chết,
nhưng thực ra nĩ đã được tái sinh từ những tro tàn của chính nĩ và trở thành mãi mãi cái mà
nĩ vừa hình thành mới này. Cho nên, tìm hiểu thơ, phân tích thơ đi vào những câu thơ cụ thể,
bài thơ cụ thể là cả một sự khám phá thú vị. Giảng dạy văn học ở nhà trường hiện nay, với
xu hướng phân tích, tăng phần cảm thụ thơ cho học sinh, cho người đọc, vì vậy, người viết
cũng mong muốn gĩp thêm một ý nhỏ, một gĩc nhỏ (minh họa thêm việc phân tích từ câu
thơ đến bài thơ) qua việc đi vào khám phá vũ trụ thơ, ngơn ngữ thơ đặc sắc của Huy Cận.
BUỒN ĐÊM MƯA
Đêm mưa làm nhớ khơng gian
Lịng run thêm lạnh nỗi hàn bao la…
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn.
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mịn lẻ loi…
Rơi rơi… dìu dịu rơi rơi…
Trăm muơn giọt nhẹ nối lời vu vơ…
Tương tư hướng lạc, phương mờ….
Trở nghiêng gối mộng, hững hờ nằm nghe.
Giĩ về, lịng rộng khơng che,
Hơi may hiu hắt, bốn bề tâm tư…
a. Bài thơ tạo cảm xúc đầu tiên cho người thưởng thức là âm điệu buồn, êm ái, đầy băn
khoăn suy tưởng. Lời thơ như uốn lượn theo nhịp điệu đều đặn của tiếng mưa rơi rào rạt.
Đều đặn, nhịp thơ quen thuộc lặp đi, lặp lại nhịp 2/2/2 của câu 6 (câu thơ lục bát) và thỉnh
thoảng chuyển sang nhịp 4/4 của câu 8 :
Đêm mưa/ làm nhớ/ khơng gian
Lịng run thêm lạnh/ nỗi hàn bao la.
Tai nương/ nước giọt/ mái nhà
Nghe trời nặng nặng/ nghe ta buồn buồn

Cứ như một “đội ngũ ngơn từ” đã tề chỉnh, câu thơ trước vừa dứt nhịp, câu kế tiếp lại
đến như theo lời mời gọi liên tục. Câu trước gợi câu sau, tạo mối liên hệ giữa nội tâm và
ngoại cảnh, hịa cùng một cảm xúc dạt dào ! Âm thanh được thể hiện khá tinh tế, Huy Cận để
tiếng mưa rơi đan vào câu thơ, vừa tạo âm thanh, vừa tạo nhịp điệu dìu dặt:
Rơi rơi/…dìu dịu/ rơi rơi/
Trăm muơn giọt nhẹ/ nối lời vu vơ/
Ở đây, nhà thơ khơng tạo điểm chú ý, mơ tả trạng thái thay đổi như kiểu đổi nhịp trong
câu 6 của các bài thơ lục bát Thu rừng, Ngậm ngùi. Thử lắng nghe những nhịp điệu êm tai
quen thuộc:
Bỗng dưng/ buồn bã/ khơng gian
Mây bay/ lũng thấp/ giăng màn/ âm u
Đột nhiên, nhịp thơ 2/2 hoặc cĩ thể 4/2 bỗng chuyển sang nhịp 3/3. Tiết tấu diễn
biến nhanh, báo hiệu tâm cảnh gì đấy, cĩ thể sẽ thay đổi? Thật vậy, liền sau câu thơ: sự xuất
hiện của một chú nai ngơ ngác như đang “xuống rừng” chào đĩn khúc giao mùa.
Nai cao gĩt/ lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc/ nhìn thu mới về
(Thu rừng)
Trong bài Ngậm ngùi, Huy Cận cũng thay đổi nhịp cho câu 6, tạo ấn tượng lạ. Nếu so
sánh nhịp điệu câu thơ ở đây với nhịp điệu câu nhạc, sẽ cho thấy sự chuyển cung khá rõ rệt:
Tương tự nhịp 3/3 trong câu thơ, nhịp trong câu nhạc đang từ cung Do chuyển sang
cung Fa:
Nắng chia/ nửa bãi/ chiều rồi
Vườn hoang/ trinh nữ/ xếp đơi/ lá rầu
Sợi buồn/ con nhện giăng mau
Em ơi/ hãy ngủ/ anh hầu quạt đây (cung Do)

Ngủ đi em/ mộng bình thường (chuyển sang cung Fa)
Sự thay đổi nhịp 3/3 này “làm nhịp thơ hiện đại hơn” (theo cách nĩi của nhà nghiên cứu
Mã Giang Lân trong bài Cấu trúc câu thơ Lửa thiêng), nhưng một mặt, dường như, ở nhịp
3/3 cũng cho thấy Huy Cận đã kế thừa nhịp thơ theo kiểu tiểu đối truyền thống trong câu thơ
Kiều: làn thu thủy/ nét xuân sơn.
Trở lại những câu thơ khơng đổi nhịp trong bài Buồn đêm mưa (2/2/2, 2/2/2/2) ; (2/2/2/
4/4) người thưởng thức thơ dễ nhận ra tâm cảm của Huy Cận đang sống trong cảm xúc hồi
niệm nhiều hơn cảm giác thực tại. Đĩ là nỗi nhớ khơng gian của thời tuổi nhỏ; là nỗi cảm
hồi khi hình dung những giọt mưa trên mái tranh; nghe tiếng mưa rơi rả rích, buồn thê thiết
chốn quê nhà. Nỗi nhớ bùng dậy theo tuổi lớn khơn, theo những cơn mưa buồn trên gác trọ.
Cung bậc cuộc sống như hịa theo cung bậc tiếng mưa với “những chân xa vắng, dặm mịn lẻ
loi”…
Thể điệu thơ thơ lục bát vốn rất “êm ái” “mềm mỏng” theo vần lưng (vần bằng); thanh
bằng chiếm tỉ lệ cao. Chính nhờ những yếu tố này cùng tồn bộ cấu trúc âm điệu đều đặn,
hài hịa, như láy đi, láy lại thanh, trong, êm ái, đã tạo nên nhạc tính cho bài Buồn đêm
mưa.
b. Ngồi nhạc tính êm dịu, da diết như thể hiện nỗi buồn trong đêm mưa, thử xem ở gĩc
độ khác của ngơn ngữ thơ, Huy Cận đã chọn lựa và kết hợp thể hiện cho chỉnh thể bài thơ
như thế nào?
Trước hết, cĩ thể nĩi đến cấp độ cú pháp dễ dàng bao quát trong tồn bài thơ là những
câu thơ được nhà thơ thể hiện theo kiểu cấu trúc câu song hành và đối lập. Sự song hành và
đối lập ở đây cĩ thể hiểu là giữa tâm và cảnh (giữa tâm hồn và cảnh vật, khơng gian).
Thế song hành và đối lập này, xuất phát từ tâm tư nhà thơ: rất gần gũi, gần như cảm
nhận hịa nhập với vũ trụ nhưng cũng dễ dàng rơi vào trạng thái e ngại trước sự bao la của
khơng gian đầy bí ẩn. Hướng đến vũ trụ, lắng nghe vũ trụ như một trong những quan niệm
sáng tác của Huy Cận xuyên suốt mạch thơ Lửa thiêng. Chính vì vậy, “dấu vết” mạch thơ
này được tìm thấy qua các câu thơ:
Đêm mưa làm nhớ khơng gian/
Lịng run thêm lạnh nỗi hàn bao la.
Trong Con mắt thơ, Đỗ Lai Thúy gọi những nỗi nhớ khơng gian của Huy Cận là nỗi ám
ảnh khơng gian. Thực ra, đĩ cũng là một phần quan niệm sáng tác quan trọng của vũ trụ thơ
Huy Cận về khơng gian vũ trụ, đối lập với “cái tơi cơ đơn” đầy sầu não- “kiếp đi hoang” của
thi sĩ. Trong Buồn đêm mưa, “nhớ khơng gian” ở đây là khơng gian một đêm mưa rất cụ thể
được “đối sánh”cùng cảm giác lạnh cụ thể của con người. “Nhớ khơng gian” là một cảm
xúc khá mới mẻ, một nghệ thuật ngơn từ khá mới mẻ trong suốt chiều dài thơ ca Việt Nam
trước đấy. Rất cĩ thể, từ tri thức mới của bộ mơn triết học phương Tây cộng hưởng cùng tâm
hồn lãng mạn phương Đơng, đã tạo nên cảm xúc thật tuyệt vời này của Huy Cận? Song song
với “nhớ khơng gian”, cách thể hiện ngơn từ nghệ thuật khá quen thuộc khi nhà thơ “nâng
tầm vĩc” cho cái lạnh cũng ở tầm vũ trụ: “nỗi hàn bao la”. Từ thế song hành và đối lập, con
người như hịa mình vào vũ trụ, những câu thơ cuối bài thơ đã cho thấy sự rộng mở
của tâm hồn Huy Cận:
Giĩ về lịng rộng khơng che/
Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư.
Nhưng, cũng từ ý, tứ những câu thơ đã cho thấy rõ cĩ sự giao hịa giữa tâm hồn nhà thơ
khơng chỉ dành riêng cho khơng gian mà cịn tìm về tâm tư chính mình và “tiếng đời” xung
quanh mình. Huy Cận lắng nghe vũ trụ trĩu nặng nỗi sầu cũng chính là lắng nghe tâm tư của
mình đang dâng dâng nỗi ưu tư:
Tai nương nước giọt mái nhà/
Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn/
Những chân xa vắng dặm mịn lẻ loi
Ở đây, động từ “nương” trong câu thơ đi liền với ngữ “nước giọt mái nhà”, mơ tả hành
động hết sức chú ý và khẽ khàng lắng nghe tiếng mưa, khơng chỉ cĩ thính giác mà cịn nghe
cả tâm cảm, cả tâm tưởng. Nhà thơ sử dụng kiểu ngữ pháp song song các điệp động từ
“nghe”, tạo sức mạnh và cấp độ điệp câu, tăng dần sức biểu cảm dành cho các câu thơ tiếp
theo:
Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn.
Cĩ lẽ, bốn câu thơ trên đã bộc lộ tâm cảnh hiện thực và “đời” nhất trong nguồn
cảm hứng sáng tạo lãng mạn đang tràn ngập nỗi buồn đêm mưa trong lịng Huy Cận.
Thêm một sự liên tưởng khá thú vị đối với người đọc ở đây, khi hình dung những cảm xúc
lắng nghe tiếng bước chân lẻ loi trong bài Buồn đêm mưa của Huy Cận với tiếng guốc đi về
trong bài Tâm tư trong tù của Tố Hữu. Cũng là tâm tư của một tâm hồn cơ đơn, nhưng ở Huy
Cận là tâm tình của một nhà thơ lãng mạn; cịn ở Tố Hữu là tâm tình cơ đơn của một nhà thơ
cách mạng:

Cơ đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lịng sơi rạo rực
Tơi lắng nghe nhịp đời lăn náo nức
Ở ngồi kia vui sướng biết bao nhiêu
Nghe chim reo trong giĩ mạnh lên triều
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh,
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh,
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về…
(Tâm tư trong tù)
Cả hai nhà thơ trong hai hồn cảnh và hai tâm cảnh khác nhau nhưng đều giống nhau ở
một điểm chung là đã và đang lắng nghe tiếng đời, lắng nghe nhịp đời và suy nghĩ về cái
thực của cuộc đời…
c. Cĩ lẽ khơng riêng gì Huy Cận, những cảm xúc về mưa trong đêm, đề tài về nỗi buồn
trong đêm mưa đã được nhiều nhà thơ xưa nay bộc bạch. Trong thơ Đường, đêm mưa với
những cảm xúc của người xưa cũng mênh mang những nỗi buồn. Tiết Phùng (nhà thơ giai
đoạn vãn Đường) với bài Trường An dạ vũ (Trường An đêm mưa )cũng nghe mưa suốt
đêm, đau đáu nỗi buồn “gạo châu củi quế”, đe dọa đời sống (cơm áo khơng đùa với khách
thơ- Xuân Diệu); lịng đầy nỗi ái ngại sợ rằng ý chí tuổi trẻ sẽ tiêu tán trong khi tĩc mình đã
bạc thêm vài chịm.
Trệ vũ thơng tiêu hựu triệt minh
Bách như thảo vũ trung sinh
Tâm quan quế ngọc thiên nan hiểu
Vận lạc phong ba mộng diệc kinh
Áp thụ tảo nha phi bất tán
Đáo song hàn vũ thấp vơ thanh
Đương niên chí khí câu tiêu tận
Bạch phát tân thiêm tứ ngũ kinh
Dịch nghĩa
(Mưa dầm suốt đêm lại đến sáng
Trăm điều lo nghĩ như cỏ trong mưa nảy ra
Lịng lo vì củi đắt như quế, gạo cao như ngọc, mong trời chĩng sáng
Vận gặp lúc sĩng giĩ khi mơ ngủ vẫn cịn sợ
Đàn chim buổi sáng đậu ở cây bay mãi khơng hết
Giọt mưa lạnh rơi xuống cửa sổ, thấy ướt mà khơng nghe thấy tiếng
Chí khí lúc cịn trẻ , nay tiêu tán hết
Tĩc bạc mới thêm ra bốn năm chịm)
Cịn nhà thơ Lý Thương Ẩn (vãn Đường) với bài Dạ vũ ký Bắc (Đêm mưa gửi thư về
Bắc), tâm tình nghe mưa trong đêm là một chuỗi hồi tưởng và suy nghĩ miên man đến tương
lai về một vùng đất. Mưa to, nước ao đầy, bao giờ gạt ngọn đèn bấc bên song cửa (ở quê
nhà). Câu hỏi của ai hay câu hỏi của chính người đang nghe mưa mà tâm tư băn khoăn, nặng
nề:
Quân vấn quy kỳ vị hữu kỳ
Ba Sơn dạ vũ trướng thu trì
Hà đương cộng tiễn tây song chúc
Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì
Dịch thơ:
(Ơng hỏi ngày về chửa định ngày
Ba Sơn mưa tối nước ao đầy
Khi nao gạt bấc đèn bên cửa
Nhắc chuyện Ba Sơn mưa tối nay)
(*núi Ba Sơn ở huyện Thơng Giang, Tứ Xuyên)
Vẫn là chuyện “nghe mưa” muơn thuở, nhưng tâm cảnh chắc chắn đã đổi khác. Tuy
phong cách thơ Nguyễn Trãi cũng cĩ âm hưởng thơ Đường nhưng tâm hồn con người Việt
Nam ở thế kỷ XV lại chất chứa một tâm sự ưu trầm, nặng lịng với thế sự. So sánh lại những
vần thơ, cho thấy cĩ điểm gì thật gần gũi giữa bài Buồn đêm mưa của Huy Cận và bài Thính
vũ của Nguyễn Trãi về cảm xúc và âm điệu nhẹ nhàng:
Tịch mịch u trái lý,
Chung tiêu thính vũ thanh.
Tiêu tao kinh khách chẩm!
Điểm trích sổ tàn canh.
Cách trúc khao song mật,
Hịa chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hồn bất mị,
Đoạn tục đáo thanh minh.
Xuân Diệu dịch thơ:
Tịch mịch phịng trai tối,
Suốt đêm nghe tiếng mưa.
Não nùng ghê gối khách,
Thánh thĩt điểm canh mờ.
Qua trúc khua bên cửa,
Hịa chuơng vang trong mơ.
Ngâm rồi vẫn chẳng ngủ,
Đứt nối đến tinh mơ.
Cảm xúc về mưa đêm dẫu quen thuộc cách mấy, bao đời nay vẫn cứ day dứt trong tâm
tư các nhà thơ. Mỗi thời đại nhà thơ cảm nhận theo quan niệm riêng của mình. Bĩng dáng
của câu thơ xưa cĩ thể vẫn bàng bạc nhưng đĩ cũng là lẽ tự nhiên khi bao đời rồi, con người
vẫn sống theo nhịp đi của mưa nắng, vũ trụ. Nhưng dẫu nhịp sống thời đại cĩ đổi thay, cũng
khơng cĩ nghĩa con người sẽ đoạn tuyệt hẳn quá khứ và đoạn tuyệt hẳn kiểu tư duy vẫn tồn
tại trong cuộc sống đời thường của con người. Thơ Đường, thơ Mới và ngày nay, trong
những câu thơ đương đại, Vũ Quần Phương đã nhắc đến Mưa đêm.
Những hạt mưa vừa rơi vừa ngủ
Đêm đang ngủ trong mưa đang rơi
Tơi thì rơi vào đêm khơng ngủ
Những hạt mưa rơi ngồi hiên mưa
Những hạt mưa ngồi hiên ai ngủ
Đêm mùa thu dài như đời người
Ai gọi ai thoảng trong hơi giĩ
Ai chờ ai đâu đĩ xa vời
Mưa đã rơi từ đời nào nhỉ
Đêm cứ đen giĩ cứ thì thào
Tĩc cứ bạc nằm mê mà bạc
Rồi mặt trời lên chứ làm sao.
Đọc bài thơ Mưa đêm của Vũ Quần Phương lần đầu tiên, người đọc cĩ cảm giác chấp
chờn, tơ lơ mơ như người chưa tỉnh giấc. Đọc thơ lần thứ hai, người ta cĩ cảm giác bị chao
động, rơi vào khoảng khơng gian rộng và lạnh; thời gian dài ra, mơng lung. Nhịp thơ như
chập chờn theo tiếng giĩ, tiếng mưa khơng đều đặn, lúc to, lúc nhỏ. Tiếng mưa rơi dội vào
cung tim nhà thơ, những cảm xúc chợt bùng lên đau đáu “Đêm mùa thu dài như đời người”!
Nhịp thơ vừa buơng lơi: Ai gọi ai/thoảng trong hơi giĩ. Ai chờ ai/ đâu đĩ/ xa vời…Đêm cứ
đen/giĩ cứ thì thào. Tĩc cứ bạc/nằm mê/ mà bạc…
Nhịp thơ như tiếng mưa rơi bỗng dừng lại; giọt mưa tạnh ngay một cách dứt khốt.
Nhịp mạnh mẽ xuất hiện ở câu thơ cuối, bộ lộ sự trầm tĩnh của con người: Rồi/ mặt trời lên
chứ làm sao!
Tiếng mưa đêm, nghe mưa đêm của Huy Cận khác với Vũ Quần Phương cũng từ tâm
cảnh và âm thanh, nhịp điệu. Thơ Huy Cận hài hịa tâm cảnh và giao hịa cùng người đọc.
Thơ Vũ Quần Phương lắng nghe nội tâm và chiêm nghiệm tự nội tâm: Rồi mặt trời lên chứ
làm sao! Câu thơ khá trúc trắc! Rõ ràng so với thơ Đường của người xưa (Trường An dạ vũ,
Dạ vũ ký Bắc) hay thơ Nguyễn Trãi (Thính vũ) và so với bài Buồn đêm mưa của Huy Cận,
bài Mưa đêm của Vũ Quần Phương cĩ phần quá tỉnh táo! Tất nhiên, đây cũng là một điều dễ
hiểu: giọng điệu nhà thơ phản ánh suy tư của con người thời đại; mà, thời đại của Mưa đêm
đang bước nhanh vào thế kỷ XXI: vội vàng, thực tế…!
Nghe lại Buồn đêm mưa là nghe lại nhịp điệu của khơng gian vũ trụ, nhịp đi của cuộc
đời hay nhịp điệu tâm hồn của con người bao đời. Mỗi nhà thơ sẽ cĩ sự cảm nhận và thể hiện
riêng những tứ thơ trong tư duy nghệ thuật của mình. Với Buồn đêm mưa, một lần nữa phong
cách thơ Huy Cận với chất trữ tình, da diết và triết lý về nỗi buồn vũ trụ, buồn nhân thế đã
được thể hiện theo một nhịp điệu, nhạc tính sâu lắng.
NHẠC SẦU
Ai chết đĩ? Nhạc buồn chi lắm thế!
Chiều mồ cơi, đời rét mướt ngồi đường;
Phố đìu hiu, màu đá cũ lên sương,
Sương hay chính bụi phai tàn lả tả?
Từng tiếng lệ: ấy mộng sầu úa lá,
Chim vui đâu? Cây đã gẫy vài cành.
Ơi chiều buồn! Sao nắng quá mong manh!
Mơi tái nhạt nào cười mà héo vậy!
Ai chết đĩ? Trục xoay và bánh đẩy,
Xe tang đi về tận thế giới nào?
Chiều đơng tàn, lạnh xuống tự trời cao,
Khơng lửa ấm chắc hồn buồn lắm đĩ.
Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ
Trần gian sao? Đây thành phố đang quen,
Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miền
Đường xá lạ thơi lạnh lùng biết mấy!
Và ngựa ơi, đi nhịp đằm, chớ nhảy
Kẻo thân đau, chưa quên nệm giường đời.
Ai đi đưa, xin đến tận nơi.
Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi
Người đã chết.- Một vài ba đầu cúi,
Dăm bảy lịng thương xĩt đến bên mồ,
Để cho hồn khi sắp xuống hư vơ
Cịn được thấy trên mặt người ấm áp,
Hình dáng cuộc đời từ đây xa tấp.
Xe tang đi, xin đường chớ gập ghềnh!
Khơng gian ơi, xin hẹp bớt mơng mênh,
Áo não quá trời buổi chiều vĩnh biệt!
Và ngươi nữa, tiếng giĩ buồn thê thiết,
Xin lặng giùm cho nhẹ bớt cơ đơn.
Hàng cờ đen là bĩng quạ chập chờn,
Báo tin xấu, dẫn hồn người đã xế…
Ai chết đĩ? Nhạc buồn chi lắm thế!
Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương
Của cuộc đời? Ai rút tự trong xương
Tiếng nức nở gởi giĩ đường quạnh quẽ!
Sầu chi lắm trời ơi! Chiều tận thế!
Trong văn bản chép tay, Huy Cận cho biết ơng đã sáng tác Nhạc sầu ở Hà Nội, bắt đầu
sáng tác ngày 10 Fev, 1940 (mồng 3 Tết Canh Thìn); xong trưa 27-2-1940 (20 tháng giêng
Canh Thìn). Nhà thơ viết Nhạc sầu từ đám tang của một cơ gái trong gia đình cụ Tạ Tài ở
phố Hàng Than. Bài thơ đã được nhà thơ sửa chữa, chọn lựa từng ý, từng từ. Phần bài viết
dưới đây chỉ phân tích ở gĩc độ nhạc tính qua ngơn ngữ thơ ơng.
a. Nhạc sầu là một trong những bài thơ được Huy Cận chọn viết theo thể loại 8 chữ và
khá dài (gồm 37 câu). Tuân thủ âm luật về vần của thể loại thơ phương Tây, Huy Cận chọn
vần liền:

Chiều mồ cơi, đời rét mướt ngồi đường;
Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương,
Sương hay chính bụi phai tàn lả tả?
Từng tiếng lệ: ấy mộng sầu úa lá,
Chim vui đâu? Cây đã gẫy vài cành.
Ơi chiều buồn! sao nắng quá mong manh!

Về thanh điệu bằng trắc trong bài thơ tương đối hài hịa. Với tổng số 296 từ, thanh
bằng cĩ 161 từ, thanh trắc cĩ 135 từ và trong tồn bộ bài thơ, nhĩm cao vẫn cĩ xu hướng
nhiều hơn nhĩm thấp. Giọng điệu chung của bài thơ đầy ưu tư, và chính vì vậy lại càng ảo
não.
Nhạc tính trong bài thơ được chú trọng ngay từ tựa tên bài Nhạc sầu. Nhà thơ rất ý thức
khi chọn từ sầu, khơng phải là từ buồn. Âm [au] và cấp độ từ sầu tạo nên cả âm thanh và ý
nghĩa sâu lắng trong trạng thái của con người càng buồn và ảo não nhiều hơn. Ở khổ thơ đầu
tiên, chen giữa những câu thơ mang âm điệu trầm buồn, Huy Cận cố tình chọn nhiều thanh
trắc vút lên trong câu thơ (thanh trắc: 7 ; thanh bằng: 2). Âm điệu tựa như những tiếng khĩc:
Trong tiếng lệ: ấy mộng sầu úa lá
Ở các khổ thơ giữa, nhịp điệu tương đối hài hịa, thâm trầm nhưng vào khổ thơ cuối,
tương tự khổ thơ đầu, tần số thanh trắc gia tăng, gây cảm giác thê thiết, xé lịng ở câu thơ thứ
36. Ở đây thanh trắc chiếm 7 từ trong khi thanh bằng chỉ cĩ 1:
Tiếng nức nở gởi giĩ đường quạnh quẽ!
Và, liên tục, âm điệu ở câu thơ cuối cùng (câu 37) lại rơi vào vần trắc; thanh trắc bỗng
vang cao, thê thiết như sự nghịch phách của âm thanh. Tiếng kèn đám ma chĩi lĩi, gây cảm
giác bừng động, đảo lộn, mất phương hướng suy tư; con người rơi vào trạng thái chán
chường cùng cực:
Sầu chi lắm! Trời ơi, chiều tận thế!
Nhạc sầu là bài thơ được Xuân Diệu “thẩm âm” và nghe rõ tiếng nhạc đến bị ám ảnh.
Khi bài thơ đăng trên báo Ngày nay, Xuân Diệu viết thư cho Huy Cận cho biết ơng đã phải
lấy bơng nhét vào tai cho khỏi nghe “điệu nhạc tan hồn ấy” [11, 271-272].
Làm thơ về nhạc buồn và chú trọng tính nhạc trong thơ, cĩ lẽ Xuân Diệu và Bích Khê là
hai nhà thơ thể hiện rõ nét nhất trong phong trào Thơ Mới.
Tính nhạc (thơ Xuân Diệu với khúc “nhạc lạnh” trong Nguyệt cầm; nhạc trong Tinh
huyết của Bích Khê…)
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh trời ơi…
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
Chiếc đảo hồn tơi rộn bốn bề…
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê
(Nguyệt cầm- Xuân Diệu)
Nàng ơi! đừng
động…cĩ nhạc trong giây,
Nhạc gây hoa mộng,
nhạc ngát trong mây;
nhạc lên cung
hường, nhạc vơ đào động,
Ơ nàng tiên nương!
-hớp nhạc đầy hương.
(Nhạc- Bích Khê)

Nhưng âm nhạc trong thơ và nhạc tính trong thơ Xuân Diệu, Bích Khê thường là nhạc
trữ tình của tình yêu, của lãng mạn, mộng tưởng mơ màng hoặc thanh, trong theo quan niệm
thiêng liêng về cái đẹp âm nhạc của chủ nghĩa tượng trưng. Thơ Huy Cận tuy cĩ chút âm
hưởng thơ Baudelaire và E. Poe nhưng Nhạc sầu trước hết vẫn mang tính chất hiện thực của
cuộc đời và luơn bộc lộ tính triết lý, giàu chất suy tưởng từ cảm nhận sâu xa của Huy Cận.
b. Đọc suốt bài thơ Nhạc sầu, người thưởng thức cĩ cảm giác bị cuốn theo dịng tâm
tưởng của nhà thơ qua một khúc phim về chuyến xe cuối cùng của một con người.
Ai chết đĩ? Nhạc buồn chi lắm thế!
Một câu hỏi về nhân vật phiếm chỉ nhưng chính là cảnh thực Huy Cận đã chứng kiến
một đám tang, cĩ hàng kèn thổi nhạc suốt ngày đêm trước nơi phố Hàng Than quen thuộc
của nhà thơ đang ở trọ. Một khơng gian ảm đạm mùa đơng đầy hình ảnh lụi tàn, chết chĩc.
Lần đầu tiên khơng gian phố thị, khơng gian đường phố vào mùa đơng, được Huy Cận tái
hiện khá rõ nét và đầy cảm xúc suốt trong cuộc hành trình đưa tang của những người tiễn
biệt.
Chiều mồ cơi, đời rét mướt ngồi đường;
Phố đìu hiu, màu đá cũ lên sương

Người đã chết.- Một vài ba đầu cúi,
Dăm bảy lịng thương xĩt đến bên mồ
Mơ tả một đám tang chỉ là cảm xúc đầu tiên để nhà thơ sáng tác; thực sự, những nghĩ
suy về cuộc đời, về quan niệm sống, chết của con người mới chính là những suy tưởng để
Huy Cận bộc bạch về “cõi người ta”
Con người khi chết đi sẽ đi về đâu? Đứng bên biên giới của sự sống, nhà thơ đã thử đặt
điểm nhìn từ suy nghĩ của người chết. Nhưng, cũng chẳng thể nào tưởng tượng hết thế giới
bên kia, nhà thơ đành quay lại chiêm nghiệm những cảm xúc từ chính bản thân người đang
sống để nĩi hộ cho người đã khuất.
Để cho hồn khi sắp xuống hư vơ
Cịn được thấy trên mặt người ấm áp,
Hình dáng cuộc đời từ đây xa tấp.
Xe tang đi, xin đường chớ gập ghềnh!

c. Nhạc sầu ở đây cũng chính là nhạc của cuộc đời! Cuộc đời là gì? Sống chết cĩ ý
nghĩa như thế nào? Triết lý của muơn đời cứ luơn day dứt trong suy tư của con người! Và,
dẫu cho mỗi thời đại, mỗi quan niệm về cuộc sống xã hội hồn tồn khác nhau nhưng âm
hưởng về những chuyến xe tang trong đời thực hay trong tâm tưởng của các nhà thơ cĩ thể
cũng đã từng gặp gỡ nhau qua ngơn từ, hình ảnh trong thơ.
Trong Nhạc sầu, Huy Cận mơ tả chiếc xe ngựa kéo xe tang trên đường ra nghĩa trang,
với lời an ủi người chết:
Xe tang đi, xin đường chớ gập ghềnh!
Khơng gian ơi, xin hẹp bớt mơng mênh,
Áo não quá trời buổi chiều vĩnh biệt!
Và ngươi nữa, tiếng giĩ buồn thê thiết,
Xin lặng giùm cho nhẹ bớt cơ đơn.
Hàng cờ đen là bĩng quạ chập chờn,
Báo tin xấu, dẫn hồn người đã xế…
Hình ảnh chiếc xe tang, tiếng kèn, hàng cờ đen, bĩng quạ, hồn người đã xế trong thơ
Huy Cận khơng khỏi làm người đọc liên tưởng đến bài thơ Chán chường (Spleen) của
Baudelaire:
Và những chiếc xe tang dài khơng kèn trống/
Chậm rãi diễu hành trong tâm hồn tơi:/
Mong mỏi
/Chịu thua, khĩc than và Lo Âu bạo tàn, chuyên chế
/Trên sọ đã gục xuống của tơi, dựng lên ngọn cờ đen/
Một liên tưởng tiếp theo: ngược lại, đọc đoạn thơ trong bài Sầu khúc của Thanh Tâm
Tuyền, người ta vẫn thấy thấp thống hình ảnh của con đường ra nghĩa trang với chiếc xe
ngựa và nghe … tiếng kèn trong buổi hồng hơn:
Chuyến xe hàng ốm yếu/
Thổ mộ con ngựa già/
Đường mịn đưa đến huyệt/
Đứa trẻ con thổi harmonica/
Trong hồng hơn tĩc rối/
Tiếng kèn khĩa ịa…
(Sầu khúc- Thanh Tâm Tuyền)
Tất nhiên, những âm hưởng giữa những hồn thơ tuy giống nhau nhưng vẫn khác. Điều đáng
nĩi, qua Nhạc sầu càng khẳng định phong cách thơ độc đáo của Huy Cận vừa đậm tính trữ
tình vừa sâu sắc tính triết lý. Sự suy tưởng trong thơ Huy Cận khơng phải chỉ là vấn đề của
vũ trụ xa xơi, của bản thể luận cao siêu mà chính là suy tưởng về cuộc đời, về đời thường
của con người và tự bao thời. Điều ấy khơng xa lạ với con người, dầu ở trong thời đại nào!
._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5701.pdf